Thưa nhạc sỹ tài hoa nhưng yểu mệnh Đặng Thế Phong, con thuyền đang “lờ lững trôi theo dòng” kia là của một chàng ngư dân. Tên chàng là Trương Chi.
Đó là một “con thuyền không bến”. Gọi như thế là vì chàng ngư dân này lúc thì ở đây, lúc thì lại đến một nơi khác, thoắt hiện, thoắt biến. Chàng cứ ngày tháng ung dung tự tại giữa trời nước mênh mông. Chẳng có chi trói buộc mái chèo của chàng cả.
Người đời vốn dĩ thích sự trói buộc nên mới đặt định ra bến bãi. Họ đâu biết rằng những bến bãi kia là mầm mống phát sinh đau khổ.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò,
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Những đợi những mong rồi những khắc khoải trách hờn. Cái vòng luẩn quẩn ấy chẳng khác chi mũi kim nhọn xuyên thấu trái tim con người khiến cho những dòng lệ phải tuôn ra. Ấy thế mà con người nào đâu đã tỉnh, cho nên bến bãi cứ mãi mãi tồn lưu.
Còn chàng ngư dân Trương Chi thì thênh thang sông nước ngược ngược xuôi xuôi. Nơi chàng không có bến bãi nào hết. Chân trời góc bể bốn phương luôn luôn là tiếng mời gọi chan chứa mặn nồng và thủy chung miên viễn.
Lênh đênh sóng nước, nhưng chàng chẳng hề cô đơn vì bên chàng lúc nào cũng có một người bạn tri kỷ: cây sáo trúc. Tiếng sáo của chàng thanh thoát. Nó lãng đãng như mây trời ngày tháng phiêu du. Nó ngọt ngào như mật ong rừng nguyên thủy. Nó là bàn tay mềm mại dìu hồn người vào cõi mộng có hoa muôn sắc, có bướm muôn màu, có giàn hợp xướng diệu kỳ của muông chim.
Tiếng sáo phù thủy của chàng khiến những cánh cửa sổ lầu son khuê các không thể then cài kiêu mị. Người ta thấy những đôi mắt ươn ướt xa xăm bên cửa sổ.
Tiếng sáo mang vị thơm ngọt của lúa trổ đòng đòng trên những cánh đồng bát ngát dưới ánh trăng làm thổn thức bao trái tim thôn nữ..
Chàng ngư – dân – nghệ - sỹ nào hay nào biết. Chàng vẫn thản nhiên đặt sáo trúc lên môi mỗi hoàng hôn. Giữa bầu trời đêm thanh tĩnh, chàng đắm hồn trong cung bậc bổng trầm của thanh âm. Mái chèo buông lơi. “Lướt theo chiều gió, một con thuyền theo trăng trong…”. Con thuyền đi… Đi mãi…
Rồi, không hiểu do nguyên cớ nào mà bóng dáng chàng- ngư-dân-nghệ-sỹ Trương Chi bỗng biệt tăm. Những cánh cửa sổ lầu son khuê các nghẹn ngào khép lại. Những vạt áo nâu non ngẩn ngẩn ngơ ngơ.
Có những tiếng sầm sì nổi lên. Người thì nói Trương Chi đã lạc vào một động tiên như Từ Thức ngày nào. Có kẻ lại bảo: tiếng tiêu của chàng đã khiến một cô con gái của một vị quan đại thần sinh bệnh vì tương tư. Vị quan đã cho mời bao nhiêu là lương y tài giỏi đến chữa bệnh cho cô con gái yêu, nhưng thảy đều bó tay. Cuối cùng, có một vị lương y kia tìm ra được bệnh của cô, nên đã bảo với gia chủ nên gọi chàng ngư - dân-nghệ-sỹ đến cho cô gặp mặt thì cô mới hết bệnh. Quả nhiên, khi gặp mặt người trong mộng thì cô gái khỏi bệnh. Cô khỏi bệnh và vỡ mộng. Bởi chàng có dung mạo xấu xí quá..
Từ lúc gặp mặt mỹ nhân thì tiếng sáo của chàng không còn hồn nhiên thanh thoát nữa. Nó trở nên day dứt, nặng nề ngàn cân vì “ai oán thương ai tàn mơ màng”. Từ đó, thế gian mới bảo nhau rằng chàng đã nằm sâu dưới đáy nước mang theo dung nhan diễm tuyệt của giai nhân.
Đấy là miệng lưỡi thế gian- thứ lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Có thể nào tin được chăng? Tin hay không tin thì tiếng sáo vi vu huyễn hoặc kia cũng đã mai một với thời gian. Và ngày hôm nay không còn ai biết đến sự hiện hữu của một thiên tài đã một thời đi vào lòng người bằng tiếng sáo trúc huyền thoại.
Các làng chài ven biển miền Trung đang trong thời kỳ tang chế. Ngày cũng như đêm khắp nơi nơi vang lên tiếng khóc nỉ non, ai oán. Y tang trắng toát cà một vùng rộng lớn. Già, trẻ, lớn, bé…con mắt trũng sâu. Những tấm thân cằn cỗi trông chẳng khác nào những thân cây héo quắt héo quơ giữa trời nắng hạn. Tiếng khóc kéo dài từ nhà ra tới bờ biển, rồi lại từ bờ biển đi vào trong nhà. Những thân cây khô liêu xiêu, vật vờ như những cô hồn không chốn đầu thai.
Trên bãi biển, những chiếc tàu đánh cá nằm chỏng chơ, mặc cho nắng mưa tha hồ làm mưa làm gió trên tấm thân tàn phế của chúng. Chúng bỗng dưng trở nên những ngôi mộ hoang. Chủ nhân của chúng hoặc đã bỏ thân ngoài khơi xa, hoặc bị bắt đem đi đến một nơi nào đó. Thủ phạm của những chết chóc kinh hoàng đó không ai ngoài các “tàu lạ” và “người lạ”. Không gì phi lý hơn việc giữa khi anh đang miệt mài kiếm sống trên mảnh đất của mình mà bị những kẻ “ lạ mặt” hùng hổ xông vào bắn giết một cách tàn bạo và dã man. Ấy vậy mà chẳng tiếng nói phản kháng nào hết. Ngay cả gọi đích danh kẻ thù cũng không. “Tàu lạ”, “người lạ”. Một cách miễn cưỡng và chiếu lệ cho qua chuyện. Thế thôi. Và thế là “Tàu lạ” và “Người lạ” cứ mặc sức tung hoành trên mặt biển quê hương như chỗ không người. Mà không người thật. Ôi! Thảm thương thay! Ở đầu thập niên của thế kỷ 21 này mà mảnh đất mang tên Việt
Trên mảnh đất hoang vu này, người dân vạn chài chỉ còn biết than khóc cho thân phận cái kiến con sâu của họ chứ biết làm gì bây giờ? Khi nào “Tàu lạ” và “Người lạ” còn nghênh ngang ngất ngưởng ngoài kia thì tiếng khóc của họ vẫn còn âm ỉ. Chừng nào “Tàu lạ” và “Người lạ” còn làm mưa làm gió trên biển quê ta thì chết chóc vẫn còn bao phủ những làng chài Việt Nam.
Trong bầu không khí u sầu ngạt thở đó, vào một buổi hoàng hôn, bỗng nhiên người ta nghe có tiếng sáo trúc vang lên. Người người ngó nhau ngơ ngác. Những dấu hỏi liên tiếp hiện ra. Không có câu trả lời.
Tiếng sáo nghe não nuột đến đứt ruột vỡ gan. Nó làm cho cả những ghè đá cũng phải ứa lệ. Sóng biển thôi rì rào. Trong oán than tiếng sáo, người ta thấy vất va vất vưởng oan hồn các ngư dân.
Dân vạn chài cảm thấy được ủi an phần nào vì đã có người đến chia sẻ nỗi đau mất mát. Họ hướng mắt ra khơi xa để tìm chủ nhân tiếng sáo. Nhưng chẳng trông thấy gì cả. Chắc đây là một vị thần linh. Họ thì thào với nhau. Dù người phàm hay thần thánh, họ vẫn thầm cám ơn tiếng sáo. Nó vỗ về. Nó băng bó những vết thương lòng.
Tiếng sáo là đề tài duy nhất trong các bữa ăn, trong những lần gặp mặt. Sầu muộn đã vơi đi phần nào trong ánh mắt. Thay vào đó là nỗi niềm đợi mong mỗi khi hoàng hôn xuống. Những cặp mắt lung linh hướng ra biển đợi chờ thứ âm thanh huyền nhiệm và huyền diệu.
Những ánh mắt của các vị trưởng lão thì có vẻ đăm chiêu hơn. Hình như các cụ có một thứ linh cảm nào đó. Thứ linh cảm này thoạt tiên chỉ là một thứ cảm giác mơ mơ hồ hồ, nghi nghi hoặc hoặc. Rồi, với thời gian, nó trở nên rõ nét dần lên. Những câu chuyện thần tiên cổ tích mà các cụ được nghe thời ấu thơ bắt đầu trở về trong trí nhớ. Mặc dù không còn minh mẫn như hồi thanh xuân, nhưng các cụ vẫn hết sức cố gắng đi tìm cho bằng được câu giải đáp cho sự việc lạ kỳ đang xảy ra nơi các làng chài này. Thế rồi, vào một buổi nọ, các cụ đồng loạt vỗ trán và đồng thành kêu lên : “Đúng rồi! Đúng rồi! Đúng rồi!”. Mắt các cụ sáng lên rỡ ràng. Bờ môi dúm dó của các cụ bỗng chốc trở thành những nụ hồng rực rỡ.
Sau đó, các con cháu làng chài biết được tên chủ nhân của tiếng sáo trúc kia. Trương Chi. Sự buồn đau tạm thời lùi đi dành chỗ cho sự thích thú về chàng ngư dân nghệ sĩ thuở xa xưa. Không hiểu tại sao mà trong lòng mỗi người vạn chài đều nảy sinh một niềm hy vọng, nhất là các cụ trưởng thượng.
Đêm nay là đêm rằm. Mặt trăng tròn trĩnh nằm vắt vẻo trên bầu trời. Ánh trăng quấn quyện những giải khăn sô và ôm ấp những tiếng khóc than u uất. Màu trắng của y tang được bàn tay điệu nghệ của nữ họa sỹ Hằng Nga dệt thành một bức tranh có một không hai của nhân loại. Khách thưởng ngoạn cảm nhận một luồng khí lạnh chạy dài suốt cột sống lưng và lan tỏa khắp châu thân. Giữa đêm trường mà mồ hôi tuôn đổ như giữa trưa hè nắng hạn.
Trong màn đêm tang tóc ấy, tiếng sáo trúc lại cất lên. Nó ấm ức. Nó tức tưởi. Nó cào xé trái tim con người.
Bỗng im bặt tiếng sáo. Những cặp mắt đỏ hoe nhìn nhau và đồng hướng về phía khơi xa. Vắng ngắt. Lặng tanh. Một bầu không khí vô cùng nặng nề bao phủ làng chài. Những vành khăn sô chấp chới chấp chới…Thời gian như ngưng đọng. Đêm đã vào khuya.
Đột nhiên tiếng sáo lại vang lên. Vang lên đúng lúc để ngăn chặn tiếng thở dài thất vọng của dân làng. Lần này, nó không tức tưởi, không u uất nữa. Người ta cảm nhận được một trận cuồng phong đang ào ạt đổ xuống. Cái khối u sầu và căm phẫn ngàn cân bấy lâu đè nặng cõi lòng dân vạn chài được trận cuồng phong kia cuốn trôi khiến những bờ môi he hé nụ cười.
Lần này tiếng sáo trúc không bay là là trên mặt biển, không vuốt ve từng đụn cát, không ôm ấp từng mái nhà. Nó vút bay lên tận chín tầng mây rồi đổ ập xuống như những đợt sóng thần. Rồi dân vạn chài thấy ở ngoài khơi xa những đám lửa ngùn ngụt bốc lên từ thân những con “tàu lạ” cùng những tiếng nổ long trời lở đất.
Dân vạn chài ôm nhau nhảy múa khi từng… chiếc từng chiếc… chìm sâu đáy đại dương. Những giải khăn sô được tung lên không trung. Chúng quấn quyện vào nhau và lả lướt lượn bay như những áng mây trời.
Khi những đốm lửa cuối cùng tan biến trên mặt biển thì dân vạn chài dập dìu nhau khiêu vũ theo tiếng sáo trúc đặt dìu, êm ả. Tiếng sáo trúc nhỏ dần… nhỏ dần… nhỏ dần… rồi mất hút cuối chân mây. Phía non đoài, mảnh trăng rằm chênh chếch.
Đêm đó, các làng chài im ắng. Nhà nhà chìm sâu trong giấc điệp. Một giấc ngủ thật an bình. Những ác mộng từ đây sẽ chỉ còn là quá khứ…
No comments:
Post a Comment