Home

Sunday, July 1, 2018

Ba Đặc khu kinh tế – Chế độ Việt Cộng đã bán lâu rồi

Ba đặc khu kinh tế của Việt Nam tỏa sức hấp dẫn

VOV.VN – Ba đặc khu kinh tế đầu tiên của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tỏa sức hấp dẫn các nhà đầu tư với các xu hướng môi trường kinh doanh tiên tiến nhất.
Những tiềm năng, lợi thế của ba đặc khu kinh tế đầu tiên của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tỏa sức hấp dẫn, tiếp cận các xu hướng môi trường kinh doanh và quản lý tiên tiến nhất của khu vực và quốc tế, thu hút các nguồn vốn, công nghệ hiện đại, nhân tài, ý tưởng phát triển và mô hình kinh doanh mới, thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu kinh tế, cải thiện nguồn thu ngân sách Nhà nước (NSNN).
Hấp dẫn và lan tỏa
Là một trong 10 nước trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển (3.260km), hơn 50 cảng biển, 40 vũng, vịnh và hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, Việt Nam đang có 16 khu kinh tế (KKT) ven biển, với 815.000ha tổng diện tích mặt đất và mặt nước, mỗi năm đạt tổng doanh thu khoảng 6 – 8 tỷ USD, đóng góp cho NSNN khoảng 500 – 600 triệu USD và hướng tới mục tiêu đến năm 2020, các KKT ven biển đóng góp từ 53 – 55% GDP quốc gia và 55 – 60% tổng kim ngạch xuất khẩu… Dù đã và đang áp dụng các chính sách ưu đãi, nhưng các KKT này vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập, tăng tốc chuyển đổi mô hình và quản lý phát triển vĩ mô, nhất là kinh tế biển.
ba dac khu kinh te dau tien cua viet nam se toa suc hap dan hinh 1
Sơ đô kiến trúc khu giải trí Vân Đồn.
Đặc khu kinh tế (ĐKKT) là sản phẩm và cơ chế thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, với tiền thân là các mô hình cảng tự do, khu thương mại tự do, khu công nghiệp và chế xuất, khu kinh tế tự do… Chúng xuất hiện đầu tiên ở Italy năm 1547 và ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương vào đầu thế kỷ 18, tiêu biểu là khu mậu dịch tự do Singapore (1819) và khu mậu dịch tự do Hồng Kông (1842). Đến nay trên thế giới đã có hơn 3.500 đặc khu và khu kinh tế tự do tại 135 quốc gia. Trung Quốc được coi là nước có nhiều thành công trong xây dựng ĐKKT. Trên thực tế, các đặc khu đang đóng góp khoảng 22% GDP, 45% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 60% kim ngạch xuất khẩu hằng năm của Trung Quốc…
Xây dựng ĐKKT được Đảng và Nhà nước quan tâm từ hơn 20 năm trước, trải qua nhiều lần “nâng lên đặt xuống”, hiện chủ trương này đang đi vào giai đoạn hiện thực hóa theo Kết luận số 74-KL/TW, ngày 17/10/2013 của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khoá XI) về thí điểm thành lập các khu hành chính – kinh tế đặc biệt (đặc khu kinh tế) tại Vân Đồn (Quảng Ninh), Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang). Cả 3 đặc khu này đều có thế mạnh và sức hấp dẫn riêng.
Vân Đồn với cửa khẩu Móng Cái, tạo thêm kênh mới trực tiếp giao thương với Trung Quốc cả về thương mại và du lịch nghỉ dưỡng cao cấp; Bắc Vân Phong có thế mạnh là cảng biển và cung cấp các dịch vụ hậu cần biển, du lịch quốc tế cao cấp phục vụ cả đối tượng dân sự và quân sự; Phú Quốc nằm gần Singapore, Malaysia và ở trung tâm của khu vực địa lý ASEAN, nên có nhiều triển vọng nhất trong định hướng trở thành một “mô hình Singapore mới” ở Việt Nam. Đồng thời, cả 3 đặc khu này sẽ tạo kết nối tổng thể không gian kinh tế mới trên biển Việt Nam và khu vực, với những điểm nhấn về tạo chuỗi cung ứng công nghiệp – dịch vụ kinh tế biển hiện đại đầy triển vọng trong tương lai.
Ba đặc khu kinh tế đầu tiên của Việt Nam tỏa sức hấp dẫn còn bởi những kỳ vọng lớn lao, tạo nơi thí điểm để mở rộng các thể chế mang tính đột phá so với mức độ hiện hành trong nước, tiếp cận các xu hướng môi trường kinh doanh và quản lý tiên tiến nhất của khu vực và quốc tế, tạo hấp lực thu hút các nguồn vốn, công nghệ hiện đại, nhân tài, ý tưởng phát triển và mô hình kinh doanh mới, thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu kinh tế, cải thiện nguồn thu NSNN, tạo việc làm, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; bảo vệ môi trường và góp phần giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển.
Chuẩn bị kỹ lưỡng với sự cẩn trọng cao
Thực tiễn thế giới đã và đang cho thấy, mức độ thành công của một ĐKKT tùy thuộc vào địa điểm được lựa chọn xây dựng, ngoài yêu cầu về bảo đảm an ninh, quốc phòng, cần bảo đảm phát huy lợi thế riêng, thuận lợi cho quá trình giao thương, hợp tác kinh tế, du lịch và dịch vụ quốc tế, nằm gần những đô thị chính, các trung tâm kinh tế, dịch vụ và văn hoá, có nguồn nhân lực chất lượng cao dồi dào, có hệ thống giao thông phát triển và cơ sở hạ tầng kỹ thuật, như điện, nước sạch, thoát nước, thông tin liên lạc,… tạo lợi thế địa kinh tế cho sự hội tụ, liên kết và lan toả cao nhất hiệu ứng tích cực cho khu vực và toàn quốc.
ba dac khu kinh te dau tien cua viet nam se toa suc hap dan hinh 2
Sân bay Vân Đồn đang được gấp rút thi công. (Ảnh Zing)
Đồng thời, đặc khu cần có những thể chế kinh tế và hành chính hiện đại, mang tính mở, tự do, minh bạch, linh hoạt và tự chủ cao, tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư, đặc biệt là thu hút các nhà đầu tư chiến lược từ bên ngoài; phát triển cơ cấu ngành nghề đa dạng, cả về chế tạo và dịch vụ, trong đó ưu tiên các ngành dịch vụ trung gian và dịch vụ hậu cần hỗ trợ kinh doanh; tiếp cận thị trường đa dạng, cả bên trong lẫn bên ngoài đặc khu, ưu tiên hướng về xuất khẩu.
Các đặc khu hiện đại thường mang dáng dấp của một thành phố tự do và có tính quốc tế hóa rất cao cả về kinh doanh và quản lý nhà nước, đáp ứng hầu hết các yêu cầu triển khai các hoạt động toàn cầu của những công ty xuyên quốc gia. Tổ chức chính quyền địa phương ở đặc khu thường phải ít cấp trung gian hơn, trực tuyến hơn và được phân quyền mạnh hơn và quản lý ưu đãi thông thoáng hơn về thuế và hoạt động tài chính, tiền tệ, ngân hàng, đất đai, giao thông và các điều kiện hỗ trợ kinh doanh và giao dịch quốc tế liên quan…
Thực tế cũng cho thấy, thành công và những kỳ vọng với đặc khu không tự đến dễ dàng. Theo Ngân hàng Thế giới, 50% trong số các đặc khu và khu kinh tế tự do trên toàn cầu đã thất bại, với không ít vấn đề đã và đang đặt ra cho việc cụ thể hóa các hình hài của từng đặc khu, đặc biệt là về cơ sở pháp lý cho mô hình tổ chức, quản lý sự phân cấp và thẩm quyền của người đứng đầu đặc khu; cơ chế giám sát quyền lực và phòng ngừa nạn tham nhũng và lộng quyền, trục lợi chính sách; định hướng phát triển ngành nghề phù hợp và cơ chế chính sách vượt trội cần thiết mang tính cạnh tranh cao.
Hơn nữa, bên cạnh những khoản chi phí lớn và áp lực tăng nợ hoặc vỡ nợ bởi đầu tư hạ tầng, bùng nổ thái quá và chệch hướng các cơ sở kinh doanh dịch vụ và nguy cơ thất thu thuế, các đặc khu cũng có thể tạo ra sự méo mó trong đời sống kinh tế – xã hội địa phương và quốc gia, trong khi không tạo ra sự bùng nổ thương mại hay cơ hội việc làm tương xứng với chi phí và theo mục tiêu ảo vọng. Việc xa rời thực tế và sự hào hứng dễ dãi một chiều trong việc thành lập, mơ hồ trong cơ chế kiểm soát các đặc khu có thể biến nơi đây thành biểu tượng của sự thiếu hiệu quả trong đầu tư xã hội, sự cạnh tranh không lành mạnh và bãi thải của công nghiệp lạc hậu, ô nhiễm môi trường.
Đặc biệt, việc cấp chính quyền sử dụng đất đai lâu dài quá mức thông thường để hấp dẫn nhà đầu tư chiến lược đầu tư lâu dài tại đặc khu, mà không cân nhắc kỹ càng các tiêu chí loại trừ, vô hiệu hóa quyền sử dụng đất đai đã giao, thiếu các cơ chế phòng ngừa chặt chẽ về pháp lý và chế tài mạnh; trong khi bị tình trạng lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ chi phối, chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”, thấy lợi ích kinh tế trước mắt mà không thấy lợi ích chiến lược quốc gia về an ninh và toàn vẹn lãnh thổ, thì rất dễ gây hệ lụy đắt đỏ bởi mưu kế “con ngựa thành Tơ-roa” của người xưa…!
Ngày 06/01/2018, Đoàn công tác của Hội đồng thẩm định Đề án thành lập Đơn vị Hành chính – Kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc do Bộ trưởng Bộ Nội vụ làm trưởng đoàn đã tiến hành khảo sát, nắm tình hình tại Vân Đồn, gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng và ghi nhận sự ủng hộ của người dân huyện Vân Đồn về chủ trương thành lập Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn. Qua đó, hy vọng góp phần hoàn chỉnh thêm Luật Đơn vị Hành chính – Kinh tế đặc biệt sẽ được Quốc hội thông qua.
Được chuẩn bị kỹ lưỡng với sự cẩn trọng cần có, ĐKKT được kỳ vọng trở thành động lực mới hấp dẫn, có thể mang lại sức tăng trưởng mới cho khu vực và cả nước, cho hôm nay và cho cả mai sau…!
__________________________________________

Đặc khu Kinh tế 99 năm – Một bước đi gấp gáp theo Lộ trình Thành Đô

Phạm Đình Trọng
Con đường tất yếu của kẻ đặt lợi ích vương triều thối nát của một dòng họ lên trên lợi ích trăm họ cũng là con đường tất yếu của những kẻ đặt lợi ích của một đảng độc tài lên trên lợi ích của dân tộc, của đất nước. Con đường bán nước… Cuối thế kỷ 20, núp dưới danh nghĩa khai thác bô xít Tây Nguyên, Tàu Cộng đã đưa hàng sư đoàn lên điểm cao Tây Nguyên, lập những làng Tầu trên nền đất văn hóa Tây Nguyên. Đầu thế kỷ 21, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Võ Kim Cự đã dâng yếu huyệt Vũng Áng, Hà Tĩnh cho Hưng Nghiệp Formosa, danh nghĩa là Tàu Đài Loan nhưng thực chất là Tàu Bắc Kinh. Năm thứ 18 của thế kỷ 21, ba đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc mở ra đón dòng người từ đại lục Trung Hoa tràn đến. Dải đất Việt Nam sẽ nằm gọn trong bàn tay với năm ngón tay thép, năm gọng kìm lửa: Bô xít Tây Nguyên ở phía Tây. Đặc khu Vân Đồn, Quảng Ninh ở phía Bắc. Căn cứ Vũng Áng Formosa Hà Tĩnh và Đặc khu Bắc Vân Phong, Khánh Hòa ở miền Trung. Đặc khu Phú Quốc, Kiên Giang ở phía Nam. Những đặc khu danh nghĩa là kinh tế sẽ hiện nguyên hình thực chất là những đặc khu quân sự…
*
Phần Một
Đặc khu Kinh tế không còn cần thiết với Việt Nam 
Đặc khu kinh tế ra đời ở những nước chưa phát triển, chưa có nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Nền sản xuất công nghiệp hiện đại là vốn tư bản, công nghệ tư bản, thị trường tư bản, một thị trường toàn cầu, không biên giới và con người tư bản, những ông chủ của nền sản xuất đó. Chưa phát triển là nói tránh cho đỡ tủi thân chứ thực sự là nước nghèo, thiếu thốn đủ thứ, đói khát đủ thứ. Đói vốn. Đói công nghệ. Đói thị trường toàn cầu. Đói khát cả cung cách làm ăn của những con người công nghiệp. Chỉ có đất tự nhiên đang chìm đắm trong giấc ngủ ngàn năm và sức lao động thừa thãi, rẻ mạt.
Trong khi đó những ông chủ tư bản ở những nước phát triển lại đang có nhu cầu phủ đồng vốn, phủ hoạt động kinh doanh, phủ thị trường ra cả thế giới và tìm kiếm, khai thác sức lao động đang dư thừa ở những nước nông nghiệp dân cư đông đúc trên khắp thế giới.
Hai nhu cầu này gặp nhau như cô gái con nhà nghèo có chút nhan sắc đến tuổi cập kê gặp chàng trai có sự nghiệp đang muốn kiếm vợ. Đặc khu kinh tế ra đời từ đó.
Thời hệ thống cộng sản thế giới tan rã. Bức màn sắt bưng bít thế giới cộng sản bị thời đại, bị lịch sử xé toang như bức tường bê tông ngăn đôi đông tây Berlin, nước Đức, bị phá bỏ. Không còn bị bưng bít, những người lãnh đạo các nước cộng sản dụi mắt nhìn ra thế giới, chợt nhận ra đất nước của họ đã bị các nước tư bản bỏ lại phía sau quá xa. Cách xa cả một tiến trình sản xuất, tiến trình sản xuất nông nghiệp và tiến trình sản xuất công nghiệp hiện đại. Cách xa cả một chế độ xã hội, chế độ mang danh xã hội chủ nghĩa nhưng thực ra là chế độ xã hội phong kiến trung cổ bạo lực, tối tăm, ngưng đọng và chế độ tư bản văn minh, phát triển.
Tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên con người của đất nước họ đâu có kém mà sao đến nông nỗi này. Láu cá và quyết đoán, Đặng Tiểu Bình đã đi đầu trong việc lập đặc khu kinh tế và chọn 2050 cây số vuông đất Thẩm Quyến của những làng chài xơ xác, sát biển, sát Hồng Kông, thuận tiện giao thương. Từ Hồng Kông sang Thẩm Quyến chỉ nửa bước chân. Những ông chủ tư bản Hồng Kông cùng nói tiếng Quảng Đông với người Thẩm Quyến đến Thẩm Quyến như về nơi quê cha đất tổ. Đất đẹp cùng nhiều ưu đãi đặc biệt đón những ông chủ tư bản mang đồng vốn tư bản, mang công nghệ tư bản, mang thị trường tư bản vào đất nước vừa trải qua cuộc cách mạng văn hóa tốn máu của hàng chục triệu mạng người nhưng xã hội càng chìm sâu vào hướng ngược chiều văn hóa.
Dưới nòng súng pháo hạm của sức mạnh quân sự mạnh nhất thế giới thời đó là Hải quân Hoàng gia Anh, nhà Thanh phải cắt đất Hồng Kông nhượng cho nước Anh 99 năm. Đó là nỗi cay đắng, nỗi ô nhục muôn đời của lịch sử, của dân tộc Trung Hoa nên dù mê mẩn thèm khát đồng vốn tư bản, mê mẩn thèm khát công nghệ tư bản, Đặng cũng chỉ cho ưu đãi về thuế, về giá thuê đất, về xuất nhập cảnh, tuyệt đối không ưu đãi về thời gian thuê đất.
Từ một huyện nghèo thuộc tỉnh Quảng Đông, trở thành đặc khu kinh tế, Thẩm Quyến trở thành trung tâm sản xuất, kinh doanh rầm rộ, phát triển nhất Trung Quốc. Năm 2017, sản lượng kinh tế của Thâm Quyến đạt 338 tỷ USD, vượt qua Quảng Châu, Hồng Kông, đứng thứ 3 trong số 659 thành phố của Trung Quốc, chỉ sau Bắc Kinh và Thượng Hải. Từ một bãi biển xơ xác, đặc khu kinh tế đã đưa Thầm Quyến trở thành cảng biển lớn thứ hai Trung Quốc chỉ sau cảng biển Thượng Hải đã có từ mấy trăm năm trước.
Thành công ngoài mong đợi của đặc khu Thẩm Quyến đã gọi những đặc khu kinh tế Chu Hải, Hạ Môn, Sán Đầu, Hùng An mọc lên. Về diện tích, các đặc khu kinh tế này nhỏ hơn một tỉnh nhỏ nhất của Trung Quốc nhưng đã đóng góp tới 22% GDP của Trung Quốc và chiếm 45% tổng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc. Các đặc khu kinh tế Trung Quốc đã trở thành động lực kéo nền kinh tế Trung Quốc băng băng chạy đua với các nền kinh tế thế giới, góp phần đưa Trung Quốc có mặt trong tổ chức G20, nhóm các nước có nền kinh tế lớn trên thế giới. Năm 2016 tổng sản phẩm trong nước của Trung Quốc đạt 11,2 ngàn tỉ đô la, đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ.
Ngoài ra, các đặc khu kinh tế còn như những chiếc van cực lớn giảm áp lực về dân số cho những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Châu. Trước đây dân nghèo đói ở miền Tây, ở các tỉnh nông nghiệp thường lũ lượt kéo về Bắc Kinh, Thiên Tân… làm thuê kiếm sống thì nay họ tìm đến các đặc khu kinh tế.
Với sự thành công của cải cách kinh tế và đặc khu kinh tế, đến thời Tập Cận Bình, Tàu Cộng trở thành chủ nợ của thế giới, trở thành ông chủ nắm vận mệnh nhiều nước châu Phi, châu Á. Dưới sức mạnh pháo hạm của hải quân Anh, Trung Hoa phải gán đất Hồng Kông cho Anh 99 năm. Ngày nay dưới sức mạnh đồng tiền vay nợ của Tàu Cộng, nhiều nước châu Á, châu Phi đã phải gán đất 99 năm cho chủ nợ Tàu Cộng.
Đi sau Tàu Cộng hơn một nhiệm kỳ đại hội đảng, năm 1986 Việt Nam mới bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới cách làm kinh tế. “Đổi mới” chỉ là cách nói kể công của những người cộng sản, thực ra chỉ là quay về với cách làm kinh tế tự chủ, sáng tạo và hiệu quả đã có ở xã hội Việt Nam trước đây mà những người cộng sản đã xóa bỏ, tiêu diệt. Tiêu diệt những tinh hoa biết làm giầu bị gán cho tội giai cấp tư sản. Hủy hoại công nghệ, cơ sở vật chất của một nền công nghiệp hiện đại đang hiện hình. Hủy hoại cả trật tự xã hội, văn hóa xã hội đang đi vào văn minh đô thị sang trọng, lịch lãm. Hủy hoại cả đời sống dân chủ trong xã hội. Hủy hoại cả ý thức cá nhân trong mỗi con người. Xã hội không nhìn nhận cá nhân. Con người không còn ý thức cá nhân. Xã hội trở về bầy đàn. Bầy đàn thì chỉ có bạo lực. Không thể có bình yên. Không thể có kỷ cương. Không thể có văn hóa.
Đổi mới, nền kinh tế không còn khép kín, bế quan tỏa cảng nữa. Hướng nội, kinh tế tư nhân được nhìn nhận. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể không còn độc tôn nữa. Hướng ngoại, mở cửa đón nhà đầu tư nước ngoài mang vốn, mang công nghệ hiện đại vào. Đây chính là thời điểm tốt nhất, cần thiết nhất và cũng là thời điểm duy nhất cần có đặc khu kinh tế. Nhưng đặc khu kinh tế đã bị bỏ qua. Nhà nước cộng sản Việt Nam không tính đến đặc khu kinh tế hay nhà nước cộng sản đàn anh Tàu Cộng không cho Việt Nam làm đặc khu kinh tế?
Tàu Cộng không bao giờ muốn Việt Nam phát triển, giàu mạnh. Mãi mãi yếu hèn, Việt Nam sẽ phải mãi mãi phụ thuộc vào họ. Họ luôn tìm mọi cách đánh phá nền kinh tế Việt Nam. Tung đội quân buôn gian bán lận xục xao mua móng trâu, mua rễ tiêu, mua tất cả những thứ có thể làm hại nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Tung đội ngũ nhà thầu đểu thâu tóm các dự án kinh tế của Việt Nam bằng cách hối lộ quan chức chủ thầu, bỏ giá thầu cực thấp để trúng thấu rồi khi thi công liên tục đội giá lên. Đưa lao động cơ bắp Tàu sang lập làng Tầu. Đưa máy móc cộng nghệ phế thải hoặc tồn kho do đã lạc hậu từ bên Tàu sang. Thi công dầm dề kéo dài như vô tận. Nhà thầu Tầu giở đủ trò đánh phá các dự án kinh tế Việt Nam nhưng đám quan chức chủ thầu đã ăn hối lộ đầy mồm cứ phải nhắm mắt chấp nhận và hầu hết các công trình, dự án kinh tế của Việt Nam đều lọt vào tay các nhà thầu đểu Tàu Cộng.
Đánh phá nền kinh tế Việt Nam, kìm hãm sự phát triển của Việt Nam không từ một thủ đoạn bẩn thỉu, đê tiện nào là chủ trương xuyên suốt của nhà nước Tàu Cộng. Lấy ý thức hệ cộng sản và lấy đồng tiền hối lộ sai khiến quan chức nhà nước cộng sản Việt Nam thì Tàu Cộng sai khiến gì cũng phải nghe. Thời điểm tốt nhất, cần thiết nhất để Việt Nam mở đặc khu kinh tế, nhưng bị Tàu Cộng ngăn cản không cho làm cũng là điều bình thường, có sác xuất rất cao là sự thật.
Không làm đặc khu kinh tế, những chuyên gia kinh tế Việt Nam vội xây dựng luật đầu tư nước ngoài với sự cởi mở của tấm lòng và nhiều ưu đãi về chính sách. Luật đầu tư nước ngoài ra đời. Nhà đầu tư nước ngoài nhộn nhịp vào Việt Nam đã lấp đầy các khu công nghiệp mọc lên trên cả nước. Nhiều khu công nghiệp rất thành công, ngày càng được mở rộng như khu công nghiệp Vietnam – Singapore ở Bình Dương, khu công nghiệp Amata ở Đồng Nai…
Đặc khu kinh tế như cái ống thông giữa hai cái bình trên một mặt bằng. Một bình đầy nước, đầy vốn tư bản, đầy công nghệ tư bản là các nước công nghiệp phát triển. Một bình trống không là nước nghèo đang khát vốn tư bản, khát công nghệ tư bản. Năm 1995, Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam, mở đường cho các nước đầu tư vào Việt Nam. Khi đó nền kinh tế Việt Nam là cái bình trống không. Cái bình trống không đó nếu có cái ống thông là đặc khu kinh tế nối với cái bình đầy vốn tư bản, đầy công nghệ tư bản thì Việt Nam đương nhiên cũng phải có những Thẩm Quyến rực rỡ, phồn vinh. Thời cơ duy nhất, tốt nhất để làm đặc khu kinh tế nhưng Việt Nam đã không làm hay không được làm.
Không có đặc khu kinh tế nhưng với luật đầu tư nước ngoài đúng đắn do nhiều chuyên gia kinh tế góp trí tuệ soạn thảo, Việt Nam đã mở rộng tấm lòng, mở rộng cửa khẩu đón nguồn vốn, đón công nghệ từ các nước phát triển chảy vào. Các khu công nghiệp là những đặc khu kinh tế phân tán nhỏ mọc lên trên khắp đất nước làm cho cái bình trống không đã óc ách nước.
Thời điểm duy nhất, tốt nhất cho đặc khu kinh tế đã qua rồi. Lúc này, đặc khu kinh tế không còn cần cho Việt Nam nữa vì:
– Ngày nay với một dải đất hẹp và trải dài thì các khu công nghiệp trải rộng trên cả nước vừa sức với trình độ các nhà quản lí Việt Nam là phù hợp nhất, tốt nhất.
– Những nguồn vốn, những ngành công nghệ của các nước muốn đầu tư vào Việt Nam một cách chân chính, đàng hoàng, chỉ vì mục đích kinh tế, đều đã đầu tư rồi. Thương trường là chiến trường. Kinh doanh phải nhạy bén, phản ứng, chớp thời cơ mau lẹ như người lính ngoài mặt trận. Việt Nam mở cửa, tạo môi trường tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài đã 30 năm. Những nhà đầu tư chậm chân nhất cũng đã kịp có mặt.
– Với kinh tế tri thức, các nhà đầu tư ra nước ngoài tìm trí tuệ, tìm tinh hoa, săn đầu người chứ không tìm đất đai, không tìm sức lao động phổ thông nữa. Những ông chủ tư bản chỉ làm kinh tế không còn nhiều quan tâm đến đầu tư nước ngoài. Phải phân biệt rõ những ông chủ tư bàn chỉ làm kinh tế khác với những người mượn cớ đầu tư kinh tế ra nước ngoài để làm chính trị sẽ nhắc đến ở phần sau. Vào làm chủ Nhà Trắng, một trong những việc đầu tiên Donald Trump làm là thúc giục những ông chủ tư bản Hoa Kỳ rút đầu tư nước ngoài về để tạo việc làm cho người lao động Mỹ.
– Hơn 20 năm đổi mới cung cách làm kinh tế đã đánh thức nội lực Việt Nam vươn vai đứng dậy thành những ông chủ lớn, những nhà đầu tư ngang ngửa với nước ngoài thì đâu cần phải vọng ngoại tìm nhà đầu tư nước ngoài. Lập đặc khu kinh tế, ưu đãi nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra sự bất bình đẳng, chèn ép doanh nghiệp trong nước như thời thuộc Pháp, nhà nước Pháp ưu đãi doanh nghiệp Pháp, chèn ép doanh nghiệp bản địa Việt Nam vậy.
Ngày nay người dân Việt Nam đã nhận ra bộ mặt thật những nhà đầu tư như bô xít Tây Nguyên, như Formosa nhảy vào Việt Nam không hẳn vì mục đích kinh tế mà vì cái lớn hơn, sâu xa hơn, độc địa hơn kinh tế là đất đai, lãnh thổ. Có quá nhiều nhà đầu tư loại này đang lăm le muốn nhảy vào Việt Nam.
Làn sóng đầu tư nước ngoài đã mang lại cho nền kinh tế Việt Nam một sức sống mới. Nhưng độc tài về chính trị, tham nhũng về kinh tế cũng đã rước những nguồn đầu tư mang lại tai họa khôn lường, gây nên những ung nhọt nhức nhối trên cơ thể đất nước Việt Nam. Như dự án bô xít đang tàn phá màu xanh Tây Nguyên, đang làm chảy máu dai dẳng nền kinh tế Việt Nam. Như tập đoàn Hưng Nghiệp Formosa Vũng Áng, Hà Tĩnh, như nhiệt điện Vĩnh Tân, Bình Thuận đã và đang giết chết biển Việt Nam, đuổi người dân ra khỏi bến bãi, biển bờ ngàn đời của họ, để biển Việt Nam không còn bóng dáng những người dân đánh cá Việt Nam, những cột mốc sống khẳng định chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên biển. Trong chuyện gấp gáp, hăm hở làm đặc khu kinh tế lúc này cũng thấy rõ bóng dáng của độc tài chính trị. Đồng hành với độc tài chính trị luôn luôn là tham nhũng quyền lực và tham nhũng kinh tế.
Phần II
Những bất thường trong Dự luật Đơn vị Hành chính – Kinh tế đặc biệt và trong cách đưa dự luật ra Quốc Hội
Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, bộ tam đặc này xin được viết gọn là Đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc, có quá nhiều điều bất thường từ dự thảo luật, nội dung luật, tạo sức ép để ra được luật. Tất cả những bất thường đó cho người dân hai cảm nhận.
Một là: Những cam kết giữa ông đảng trưởng Việt Cộng Nguyễn Văn Linh và ông đảng trưởng Tàu Cộng Giang Trạch Dân ở Thành Đô năm 1990 vẫn đang còn giấu kín. Nhưng dường như Luật Đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc chính là bước đi theo lộ trình đã vạch ở Thành Đô năm 1990. Khi Luật Đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc được hơn 90 % ông bà nghị là đảng viên cộng sản bấm nút thông qua thì ngày nhà nước Việt Nam độc lập bị thực sự xóa sổ đã cận kề.
Hai là: Thế lực đen tối ở bên ngoài Việt Nam áp đặt Việt Nam phải làm bô xit Tây Nguyên nay lại lù lù xuất hiện áp đặt Việt Nam phải làm đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc. Sự áp đặt đó đang đè nặng xuống phòng họp Diên Hồng trong tòa nhà Quốc hội ở Ba Đình.
– Áp đặt 
Nền kinh tế Việt Nam không cần có đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc cũng như nền kinh tế Việt Nam không cần khai thác bô xít Tây Nguyên. Con mắt, tầm nhìn Việt Nam không chọn Đồn-Phong-Quốc làm đặc khu kinh tế. Nhưng một thế lực từ bên ngoài đã nhòm ngó, thèm khát Tây Nguyên. Nay thế lực đó lại nhòm ngó, thèm khát ba yếu huyệt Đồn-Phong-Quốc. Vì vậy mà đã có dự án khai thác bô xít Tay Nguyên và nay lại có Đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc.
Trước tiếng nói của một công thần nhà nước cộng sản Việt Nam, đại tướng Võ Nguyên Giáp, ba lần lên tiếng về nguy cơ của dự án bô xít Tây Nguyên, trước những cơn sóng lừng phản đối dự án bô xít Tây Nguyên của đội ngũ trí thức và đông đảo người dân, ông thành viên bộ chính trị đảng cộng sản và là Thủ tướng nhà nước cộng sản Việt Nam lúc đó là Nguyễn Tấn Dũng chỉ đáp gọn lỏn: Dự án bô xít Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng. Chủ trương lớn của đảng vì trước đó người đứng đầu đảng Việt Cộng, Nông Đức Mạnh đã cam kết với người đứng đầu đảng Tàu Cộng Hồ Cẩm Đào về việc cùng với Tàu Cộng khai thác bô xít Tây Nguyên của Việt Nam. Một ông đảng trưởng không có quyền hành pháp, tự tiện quyết định công việc nhà nước, công việc hành pháp, áp đặt cho cả bộ máy nhà nước phải thực hiện.
Đảng áp đặt thì dân phải gánh chịu và nước phải lãnh đủ. Áp đặt về kinh tế, đảng cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam những thảm họa lớn như:
– Đảng Việt Cộng nghe Tàu Cộng xui khôn xui dại áp đặt cải cách ruộng đất thì hàng trăm ngàn nông dân làm ăn giỏi có cuộc sống sung túc phải trở thành địa chủ, bị xử bắn và người bị đảng bắn chết thê thảm đầu tiên, bắn chết ở ngay bản doanh kháng chiến của cơ quan đầu não cộng sản Việt Bắc là người đàn bà ân nhân của đảng, bà Nguyễn Thị Năm. Cải cách ruộng đất không chỉ giết hàng trăm ngàn nông dân làm ăn giỏi, những người sáng tạo nên nền văn minh lúa nước Việt Nam mà còn phá nát nền văn hóa làng xã Việt Nam.
– Đảng áp đặt cải tạo tư bản, tư doanh thì nền công nghiệp hiện đại mang khát vọng dân tộc Việt Nam đang lớn mạnh liền bị quốc hữu hóa. Giao vào tay những người chỉ có lòng hận thù giai cấp, chỉ biết có bạo lực cách mạng, nền công nghiệp hiện đại nhanh chóng tan nát.
Chủ trương lớn của đảng đã áp đặt thì hàng trăm ngàn tỉ tiền thuế của dân phải ném vào dự án bô xít, thì cánh cửa khẩu nhập cảnh, cánh cửa an ninh quốc gia phải mở rộng đón hàng chục ngàn lao động cơ bắp từ Tàu Cộng tràn vào Tây Nguyên. Màu xanh bất tận Tây Nguyên bị hủy diệt. Nền văn hóa rừng đặc sắc Tây Nguyên bị đánh bật gốc rễ. Mỗi năm dự án khai thác bô xít Tây Nguyên thua lỗ hàng ngàn tỉ đồng. Cả chục năm nay từ khi khai thác bô xít Tây Nguyên nền kinh tế Việt Nam bị chảy máu xối xả.
Kín đáo hơn, sâu xa hơn, mềm mại, uyển chuyển hơn nhưng sự áp đặt vẫn lồ lộ ra trong việc đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đang gấp gáp triển khai ba đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc. Ngày 21.5.2018 Quốc hội mới nhóm họp để xem xét dự luật Đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc nhưng từ hơn tháng trước, ngày 16.4.2018 bà chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã quán triệt, nhắc nhở và cả chỉ thị cho thành viên ủy ban Thường vụ Quốc hội trong cuộc họp chuẩn bị cho kỳ họp Quốc hội tháng sau: Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không thể không ra luật.
Bộ Chính trị đã kết luận rồi chỉ là cách nói mềm mại, uyển chuyển của một sự thật: Bộ Chính trị đã quyết định rồi. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ che giấu sự thật thì những người cộng sản Việt Nam là kiệt xuất. Như thành phố Sài Gòn đã chi hàng ngàn tỉ tiền ngân sách vào việc chống ngập lụt nhưng chỉ một trận mưa nhỏ những điểm ngập lại xuất hiện khắp thành phố, những người đã làm tiêu tan hàng ngàn tỉ tiền thuế của dân liền gọi tên sự ngập lụt đó chỉ là những điểm tụ nước. Thực chất Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc nhằm hướng tới Tàu Cộng, nhằm mở cửa đón Tàu Cộng. Nhưng để giấu kín ý đồ đó, trong luật, tên Trung Quốc đã được thay bằng “nước chung đường biên giới với Quảng Ninh”. Tài đến thế là cùng!
Bộ Chính trị đã quyết định rồi và ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội phải nhắc nhở, chỉ thị cho thành viên ủy ban thường vụ Quốc hội đều là đảng viên phải chấp hành. Bộ Chính trị đã quyết định rồi và trưởng đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh phải quán triệt, đòi hỏi đảng viên trong đoàn “phải bàn để ra luật chứ không thể không ra luật” Ai cũng biết hơn 90% các ông nghị, bà nghị là đảng viên cộng sản thì cái kết luận, cái quyết định của Bộ Chính trị đảng cộng sản cũng sẽ là cái quyết định của Quốc hội cộng sản mà thôi. Đây là điều người dân đang vô cùng lo lắng và phẫn nộ.
Áp đặt ở nghị trường. Áp đặt trong đội ngũ quan chức nhà nước. Áp đặt cả với dư luận, với người dân. Dự luật hình thức là đặc khu kinh tế nhưng thực chất là văn bản pháp lý hợp thức hóa việc rước giặc vào nhà đang làm hầu hết người dân Việt Nam thắt tim lo lắng và bừng bừng phẫn nộ thì nhà nước cộng sản liền đưa một đoàn nhà báo công cụ của đảng sang chiêm ngưỡng sự phồn vinh hào nhoáng của đặc khu kinh tế Thẩm Quyến bên Tàu rồi mang sự phồn vinh hào nhoáng Thẩm Quyến về ru ngủ sự phẫn nộ của người dân Việt Nam.
– Đặc khu Kinh tế hay Đặc khu Quân sự 
Với Việt Nam, đặc khu kinh tế là sản phẩm của thế kỷ 20. Sắp hết thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21 mới tính đến làm đặc khu kinh tế là đã quá lỗi thời, lạc lõng với thời đại. Dự luật đặc khu hành chính – kinh tế Đồn-Phong-Quốc với hai nội dung cho thuê đất 99 năm và những pháp nhân trong đặc khu được mời tòa án nước ngoài phân xử tranh chấp lại càng lạc lõng và vô cùng nguy hại.
Cho thuê đất 99 năm thực chất là gán đất, nhượng đất, là sản phẩm của hai thời lịch sử:
– Thời thực dân cũ ở thế kỷ 19, nước thua trận phải nhượng đất 99 năm cho nước thắng trận. Như Trung Hoa Mãn Thanh phải nhượng đất Hương Cảng 99 năm cho nước Anh.
– Thời thực dân tiền ở đầu thế kỷ 21. Với sự trỗi dậy của chủng tộc Đại Hán luôn có khát vọng đất đai lãnh thổ cũng là thời trỗi dậy của một thứ chủ nghĩa thực dân mới là chủ nghĩa thực dân tiền. Cải cách kinh tế đã nâng Tàu Công lên thành một cường quốc kinh tế. Cường quốc kinh tế Tàu Cộng với đồng tiền rủng rỉnh liền làm sống lại chủ nghĩa thực dân, đi xâm lược, chiếm đất, vơ vét tài nguyên, nô dịch các dân tộc nhỏ yếu và Tàu Cộng đã sáng tạo ra loại hình thực dân mới, thực dân tiền. Vung tiền cho các nước nghèo khó và các nước độc tài, tham nhũng vay. Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống. Tiền vào nước độc tài, tham nhũng như nước chảy vào cái thùng không đáy. Tiền vay cho nền kinh tế nhưng phần lớn chảy vào túi quan tham thì lấy đâu ra tiền trả nợ! Không có tiền trả nợ, con nợ phải nhượng đất 99 năm cho chủ nợ Tàu Cộng. Sri Lanka đã  phải nhượng cảng Hambantota 99 năm cho Tàu Cộng. Campuchia cũng đã gán  cảng Congpongsom 99 năm cho Tàu Cộng…
Đặc khu kinh tế đã là quá khứ. Vì sao lúc này chóp bu cộng sản Việt Nam lại gấp gáp, máu me làm đặc khu kinh tế? Cho thuê đất 99 năm thực chất là nhượng đất. Nước con nợ phải mang đất gán nợ cho nước chủ nợ. Vì sao lúc này nhà nước cộng sản Việt Nam lại phải hấp tấp, lấm lét và trí trá, lừa dối dân mang ba mảnh đất vàng ở ba vị trí chiến lược hiểm yếu ra gán nhượng? Đặt ra hai câu hỏi này sẽ tìm thấy ngay câu trả lời là ở Tàu Cộng.
Đây là lúc kinh tế Việt Nam cùng quẫn nhất, khốn đốn nhất, hậu quả để lại sau hai nhiệm kỳ của ông Thủ tướng dốt nát, tham nhũng và tàn bạo Nguyễn Tấn Dũng. Cả một chính phủ hối hả tham nhũng với những Nguyễn Tấn Dũng, Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Bắc Son, Phùng Quang Thanh, Đinh La Thăng, Võ Kim Cự, Nguyễn Bá Thanh, Văn Hữu Chiến… Loại quan chức chưa mon men được tới cấp Chính phủ như Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng, Trịnh Xuân Thanh… mỗi tên cũng nuốt hàng ngàn tỉ đồng thì ở cấp Chính phủ, số tiền tham nhũng còn khủng khiếp đến thế nào. Nền kinh tế đất nước bị phá tanh bành, ngân khố trống rỗng, công nợ ngập đầu. Lộn túi dân ra vét tiền bằng đủ các sắc thuế, sắc phí tàn ác hơn cả thời thuộc Pháp. Mang cả các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi Sabeco, nhựa Bình Minh… ra bán tống bán tháo cũng không cứu vãn được ngân sách trống rỗng. Rồi lại dồn dập đến kì hạn phải trả những khoản nợ vay nước ngoài và Tàu Cộng là một chủ nợ lớn.
Cùng với kinh tế suy sụp là lòng dân ly tán. Nhà nước độc tài và tham nhũng ngày càng đi ngược lợi ích của nhân dân và đất nước, ngày càng thù địch, đàn áp dân tàn bạo. Đàn áp đổ máu dân Hà Nội, Sài Gòn biểu tình phản đối sự có mặt của Tập Cận Bình ở Việt Nam. Đàn áp dân Nghệ An, Hà Tĩnh trong thảm họa Formosa. Lòng dân không chỉ ly tán mà nỗi bất bình ngày càng ngùn ngụt bốc cao. Đây chính là lúc nhà nước cộng sản Việt Nam suy yếu nhất, run rẩy nhất. Càng run rẩy trước dân càng phải lấp liếm sự run rảy bằng bạo liệt đàn áp. Đây là lúc nhà nước cộng sản Việt Nam xa dân nhất, chới với nhất.
Trong cảnh kiệt quệ, khốn cùng, nền kinh tế Việt Nam khấp khởi trông chờ vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP và Hiệp định Hợp tác thương mại với Liên minh châu Âu EVFTA. Nhưng Trời không dung độc tài và tham nhũng. Không những Mỹ rút ra khỏi TPP làm cho TPP không còn giá trị mà những công ty Mỹ đầu tư ra nước ngoài cũng đang tính nước rút về Mỹ. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP thay thế TPP thì chưa ngã ngũ. Sau vụ kéo cả một đám tướng tá an ninh nhà nước cộng sản Việt Nam lén lút sang nước Đức, đạp lên luật pháp nước Đức, đột nhập vào Berlin bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, quan hệ giữa nhà nước cộng sản Việt Nam với cả Liên minh châu Âu trở nên tồi tệ chưa từng có thì EVFTA còn treo lơ lửng vô thời hạn.
Để cứu vãn tình thế, ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng vội hấp tấp đến Pháp. Pháp cùng với Đức là hai nước trung tâm, rường cột của Liên minh châu Âu và Pháp cũng là nước có quan hệ thân tình, mật thiết với nước Đức. Dù phải mở cửa Điện Élysée tiếp ông đảng trưởng độc tài nhưng đất nước đã làm cuộc cách mạng tư sản dân quyền từ thế kỷ 18 phá nhà ngục Bastille của độc tài phong kiến không thể chấp nhận độc tài và ông chủ trẻ của đất nước Tự do – Bình Đẳng – Bác ái đã tiếp ông đảng trưởng cộng sản quá lạnh nhạt, hờ hững như tiếp kẻ độc tài từ thế kỷ 18 lạc loài giữa ánh sáng văn minh. Ông đảng trưởng độc tài càng nhận rõ sự lạc lõng, cô đơn của nhà nước cộng sản Việt Nam và nhận ra những cái phao cứu sinh của nền kinh tế Việt Nam đều đã không còn. Việt Nam không những suy yếu mà còn đơn độc giữa thế giới loài người hơn bao giờ hết.
Trong khi đó Tàu Cộng đã quân sự hóa xong các đảo cướp được của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa. Trên những sân bay hiện đại và những trận địa dã chiến giữa biển Đông, những máy bay ném bom hạng nặng đã vào vị trí xuất phát, những dàn tên lửa đã lên bệ phóng hướng về phía Tây, nơi có dải bờ biển hình chữ S.
Run rẩy trước nhân dân trong nước. Cô lập lẻ loi trong thế giới loài người văn minh. Những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đưa mắt nhìn quanh chỉ thấy có mỗi thân hình lừng lững như hộ pháp và bộ mặt cuộn lên từng múi thịt của Tập Cận Bình. Thôi đành nhắm mắt thực hiện những cam kết cay đắng ở Thành Đô năm 1990, làm theo những gì con người hộ pháp kia cần. Bộ mặt nậc lên từng múi thịt đang hau háu thèm khát nhìn vào Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc thì phải gấp gáp làm luật biến ba nơi đó thành ba đặc khu kinh tế che mắt dân và lặng lẽ đón những kẻ ngàn đời thèm khát đất đai lãnh thổ vào mảnh đất Vân Đồn còn in dấu chân, in chiến công đánh đuổi giặc Nguyên của Đức Ông Trần Quốc Tảng đời nhà Trần.
Con đường tất yếu của kẻ đặt lợi ích vương triều thối nát của một dòng họ lên trên lợi ích trăm họ cũng là con đường tất yếu của những kẻ đặt lợi ích của một đảng độc tài lên trên lợi ích của dân tộc, của đất nước. Con đường bán nước.
Cuối thế kỷ 20, núp dưới danh nghĩa khai thác bô xít Tây Nguyên, Tàu Cộng đã đưa hàng sư đoàn lên điểm cao Tây Nguyên, lập những làng Tầu trên nền đất văn hóa Tây Nguyên.
Đầu thế kỷ 21, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Võ Kim Cự đã dâng yếu huyệt Vũng Áng, Hà Tĩnh cho Hưng Nghiệp Formosa, danh nghĩa là Tàu Đài Loan nhưng thực chất là Tàu Bắc Kinh. Vũng Áng đã trở thành đất của Tàu Cộng trong 70 năm. Người Việt Nam dù là quan chức quản lý đất đai cấp bộ cũng không được bén mảng đến. Sau bức tường cao quây kín Vũng Áng, lao động Tàu đang xây dựng cảng nước sâu Sơn Dương cho tầu ngầm có thể neo đậu, biến cảng nước sâu Sơn Dương thành một đầu cầu cho quân từ biển đổ bộ vào đất liền, cắt đôi đất nước Việt Nam ở nơi hẹp nhất. Cảng nước sâu Sơn Dương cùng với căn cứ hải quân Du Lâm trên đảo Hải Nam của Tàu Cộng tạo thành cánh cửa thép khép kín vịnh Bắc Bộ, cắt đôi biển Việt Nam.
Năm thứ 18 của thế kỷ 21, ba đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc ra đời. Không có CPTPP, không có EVFTA thì chỉ có những dòng người từ Tàu Cộng tràn vào với danh nghĩa nhà đầu tư.
Ba đặc khu kinh tế Đồn-Phong-Quốc mở ra đón dòng người từ đại lục Trung Hoa tràn đến. Dải đất Việt Nam sẽ nằm gọn trong bàn tay với năm ngón tay thép, năm gọng kìm lửa: Bô xít Tây Nguyên ở phía Tây. Đặc khu Vân Đồn, Quảng Ninh ở phía Bắc. Căn cứ Vũng Áng Formosa Hà Tĩnh và Đặc khu Bắc Vân Phong, Khánh Hòa ở miền Trung. Đặc khu Phú Quốc, Kiên Giang ở phía Nam. Những đặc khu danh nghĩa là kinh tế sẽ hiện nguyên hình thực chất là những đặc khu quân sự.
07.06.2018
________________________________________________

Cho thuê 3 Đặc Khu 99 năm sẽ trở thành “Tô Giới” vĩnh viễn của Tàu cộng

“TÔ GIỚI” LÀ GÌ?
Tô giới là một phần lãnh thổ nằm trong một quốc gia có chủ quyền, nhưng bị một nước khác cai quản. Thường thường là một cường quốc thực dân hay một thế lực nào đó được cường quốc thực dân hậu thuẫn như trong trường hợp các công ty mậu dịch thực dân.
Thường thường “tô giới” bị nhân nhượng hay được cho phép thậm chí bị chiếm giữ từ một quốc gia yếu thế sang nhượng cho một cường quốc mạnh hơn. Thí dụ, triều đình Mãn Thanh của Trung Hoa phong kiến suy yếu cả về quân sự lẫn chính trị vào thế kỷ 19 bị liệt cường xâu xé, ép buộc ký một số hiệp ước trao cho nhiều cường quốc thực dân châu Âu và Nhật Bản một số quyền lợi trong đó có các tô giới của Anh – Pháp – Nhật – Đức – Nga…
Sự kiện tháng 10 năm 1843, triều đình Mãn Thanh ký với Đế quốc Anh “Điều ước Hồ Môn” tại Hồ Môn Quan thuộc tỉnh Quảng Đông. Từ đó mở đường cho bọn đế quốc bắt đầu thiết lập những tô giới ở Trung Hoa Lục Địa. Ban đầu quyền sở hữu đất đai trong “tô giới” thuộc về chính phủ Trung Hoa. Nhưng, sau đó chúng thành lập chính phủ, lực lượng cảnh sát và tòa án riêng trong các tô giới, đơn phương thu thuế không cho phép chính phủ Trung Hoa can thiệp. Các tô giới đã biến thành những quốc gia  nằm trong một quốc gia.
“Tô giới” (concession) cũng gần như “Nhượng địa” (Hồng Kông & Ma Cau) là chủ quyền của một quốc gia phải chuyển giao một phần đất hoặc một khu vực thuộc chủ quyền lãnh thổ của quốc gia theo một hiệp ước, giao ước nào đó với một quốc gia khác. Đặc điểm của “Tô giới” hay “Nhượng địa” đều khá giống nhau:
·        Là một quốc gia có chủ quyền nhưng đã chuyển giao cho ngoại bang cai quản.
·        Luật pháp quốc gia không có ảnh hưởng nào trong địa phận tô giới hay nhượng địa.
·        Người dân trong quốc gia đó không có quyền lai vãng hay phận sự vào trong tô giới đó.
·        Chính quyền sở tại muốn vào khu vực nầy phải có giấy mời của của “Thị trưởng tô giới” hoặc phải có giấy thông hành. Bởi gì không thể áp đặt của luật pháp quốc gia vào những nơi nầy.
·        Quyền đặc miễn đó gọi là lãnh sự tài phán được áp dụng cho người đứng đầu tô giới.
Tại Trung Hoa lúc bấy giờ, các thành phố Thượng Hải, Quảng Châu, Phúc Châu, Hạ Môn, Thiên Tân, Hán Khẩu, Cửu Giang, Trùng Khánh…đều có tô giới do các đế quốc khống chế và cai quản, cho mãi tới năm 1949, nướcTrung Quốc mới được thành lập, nhân dân Trung Hoa mới tiến hành đámh đuổi ngoại xâm, thu hồi tô giới.
Ngày nay “tô giới” hay “nhượng địa” được ĐCSVN cải danh là hình thức “cho thuê” như cho Tàu Cộng thuê 3 Đặc Khu Kinh tế Vân Đồn – Bắc Vân Phong và Phú Quốc trong 99 năm. Ba vị trí chiến lược này sẽ trở thành “tô giới” vĩnh viễn của bọn Chệt Bắc Kinh.
ĐCSVN ĐÃ NHƯỢNG NHỮNG VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC NÀO CHO TÀU CỘNG?
TRÊN ĐẤT LIỀN:
[1] TÂY NGUYÊN: Đây là địa bàn chiến lược tối quan trọng, có giá trị to lớn về mặt quân sự, kinh tế và chiến lược yết hầu. Vùng Tây Nguyên quan trọng tới mức độ “nếu nước nào chiếm được Tây Nguyên thì coi như đã làm chủ được Việt Nam – Campuchia – Lào”, vì đây là “nóc nhà của Đông Dương” nằm liền kề ngã ba Đông Dương.
Đối với Việt Nam có tầm quan trọng chiến lược, bởi vì từ Tây Nguyên muốn tiến quân xuống Nha Trang sẽ chia cắt lãnh thổ VN ra làm đôi, miền Bắc và Nam không tiếp ứng được nhau. Nói tóm lại, “Tây Nguyên là xương sống của Việt Nam và là cái thế phòng ngự vững chắc để tái xây dựng lực lượng và dưỡng quân không kẻ thù nào có thể đánh bại chúng ta. Nếu để Tây Nguyên lọt vào tay kẻ thù thì chúng ta sẽ mất nước”. Vì vậy, việc bảo vệ Tây Nguyên có ý nghĩa sống còn cho các thế hệ hôm nay và mai sau của chúng ta.
Lợi dụng sự ươn hèn, khiếp nhược và ngu ngốc của những tên lãnh đạo ĐCSVN bất tài, tham nhũng, thối nát. Bọn Chệt Bắc Kinh đưa ra những yêu sách thật phi lý như sau: “Được quyền đưa công nhân vào Tây Nguyên bao nhiêu cũng được và tự quản lý người của họ theo quy chế ngoại giao. Có nghĩa là họ có thể đưa hàng vạn binh lính PLA, ngụy trang thành công nhân để xây dựng thành một chuỗi “căn cứ quân sự” được trang bị vũ khí chờ cơ hội sẵn sàng đánh chiếm VN mà chính quyền CSVN không được quyền kiểm soát. Ước tính quân số QĐNDTQ (PLA) đội lốt công nhân có tới từ 3 tới 4 sư đoàn được trang bị với đầy đủ vũ khí và đạn dược”.      
[2] CHO THUÊ RỪNG ĐẦU NGUỒN: Mặc dù Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên & Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cảnh báo hiểm họa của bọn lãnh đạo ĐCSVN cho ngoại bang thuê đất rừng đầu nguồn dài hạn 50 năm để trồng rừng nguyên liệu với tổng diện tích 305.353 ha, trong đó Hồng Kông, Đài Loan và Tàu Cộng chiếm tới 87% ở các tỉnh xung yếu biên giới.
Khu vực rừng đầu nguồn Ngàn Me, thuộc xã Tân Lợi, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên bị tàn phá vô cùng nghiêm trọng. Chúng tha hồ chặt phá cây rừng, khiến lũ lụt quét rất khủng khiếp. Từ những năm qua, nhiều tỉnh miền Trung đã hứng chịu nhiều trận lụt kinh hoàng, chẳng phải đó là lời cảnh báo nghiêm khắc hay sao? Các tỉnh bán rừng đầu nguồn cho nước ngoài là “tự sát”! Bọn chúng cố tình phá hoại và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách có hệ thống vô cùng thâm độc và tàn bạo. Từ khoảng tháng 2/2013 tới nay, nhiều dân nước ngoài tiến hành chặt phá rừng ồ ạt công khai với mục đích tàn phá môi trường sống nước ta, diện tích rừng bị tàn phá lên tới hàng trăm hécta.
Họ đã đưa di dân và thân nhân của họ vào khai thác, trồng trọt, xây dựng nhà cửa rồi sinh con đẻ cái, thành lập từng làng như: làng Đài Loan, làng Hồng Kông, làng Trung Quốc, tính kế bám trụ vĩnh viễn. Thế là vô tình Việt Nam đã mất đi một phần lãnh thổ và vô cùng nguy hiểm cho an ninh quốc phòng. Việt Nam dưới sự lãnh đạo ĐCSVN đã trở thành “lãnh thổ da beo”.
[3] FORMOSA HÀ TĨNH: Đây là đề xuất thành lập đặc khu kinh tế gang thép Vũng Án và trong đặc khu thành lập Ban Quản Trị, trực thuộc Văn phòng chính phủ. Trong công văn số 1406022/CV-FHS ngày 10/6/2014 gởi Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải (gián điệp Tàu Khựa), Formosa đưa ra đề xuất thành lập “Đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng” nhằm xây dựng cảng nước sâu Sơn Dương và đầu tư các ngành công nghiệp liên quan như gang thép, điện…Một mình tên Tàu khựa Hoàng Trung Hải đã toàn quyền giải quyết từ chủ trương đầu tư, cho đến những ưu đãi vô tiền khoáng hậu dành cho dự án đầy mờ ám như chính nguồn gốc Tàu khựa của tên Việt gian nằm vùng vô cùng nguy hiểm này.
Do công văn số 323/TTg-QHQT ngày 4/3/2013: “Đồng ý chủ trương cho Tập đoàn Công nghiệp nặng Formosa – Đài Loan lập dự án đầu tư nhà máy liên hợp luyện thép và cảng nước sâu Sơn Dương tại khu kinh tế Vũng Án, tỉnh Hà Tĩnh” do tên Tàu khựa Hoàng Trung Hải ký.
Sau khi Formosa đã tiến hành lễ khởi công xây dựng nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh vào tháng 12/2012. Một dự án quan trọng trong khu liên hợp có diện tích 3.300 ha. Từ đó tới nay, khu vực này được cho là “bất khả xâm phạm”. Dân chúng quanh vùng không thể vào trong khu dự án vì bọn chủ đầu tư thuê bảo vệ canh gác tứ phía rất nghiêm nhặt. Rõ ràng, Formosa Hà Tĩnh đã trở thành một “nhượng đất” cho bọn Chệt trên đất nước chúng ta.
Cũng theo báo Hải Quan, một trong những đề xuất mang tính ưu đãi là nhà nước chấp thuận đề nghị cắt đất để bán lâu dài cho nhân viên mà Formosa dự kiến số lượng nhân viên là 15.000 người và tính luôn gia đình của họ đạt tới con số 60.000 người như một thị trấn nằm trong đặc khu với ý đồ bám trụ thời gian vô hạn định ở đây. Hiện nay, số công nhân làm việc trên 19.000 người, nhưng các nhà thầu đang chờ đưa thêm 11.000 lao động Tàu Hoa Lục vào làm việc. Với đợt tăng cường này đủ để thành lập 2 sư đoàn PLA.
Vũng Án Quãng Trị là vị trí chiến lược cắt đôi nước Việt Nam. Từ Vũng Án ngó qua đảo Hải Nam không bao xa. Nếu như Bắc Kinh  điều động một hạm đội với lực lượng PLA từ Hải Nam sang xăm lăng VN, họ đã thuê được hàng chục cây số dọc theo bờ biển Hà Tĩnh và vùng cửa khẩu Vũng Án, thành một bãi đáp vô cùng lý tưởng cho việc đổ bộ quân lính.
Tháng 10/2013, đài RFA có đăng một “Một Hà Tĩnh đầy ấp người Tàu”. Rõ ràng, Bắc Kinh đang thực hiện sách lược di dân âm thầm nhưng quyết liệt và hiệu quả vào lãnh thổ Việt Nam một cách hợp pháp với sự tiếp tay bán nước của bọn lãnh đạo ĐCSVN thông qua chánh sách đầu tư xây dựng. Đây là một nguy cơ tiềm ẩn vô cùng nghiêm trọng báo động cho toàn dân cả nước biết. Ngoài ra vị trí chiến lược khác như Đèo Hải Vân, cảng chiến lược Chân Mây nằm dưới chân đèo Hải Vân là một cảng nước sâu nằm ở xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế đang rơi vào vòng kiểm soát của bọn Chệt Bắc Kinh.
TRÊN BIỂN:
[1] ĐẢO GẠC MA: Bắc Kinh đã xây dựng nhiều cơ sở quân sự, đường băng trên đảo này thuộc quần đảo Trường Sa của VN, nó đẩy sự ổn định của các nước ĐNÁ rơi vào tình trạng nguy hiểm, đặc biệt là Việt Nam. Những căn cứ dự trù xây dựng cả bến tàu để có thể tiếp tế và hổ trợ cho tàu hải quân khu trục. Ngoài ra, chúng ta còn thấy đường băng với chiều dài 1,6 km làm căn cứ cho chiến đấu cơ J-11 của TC.
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) Tàu Cộng đã bồi đắp diện tích hơn 100.000 m2 trên đảo Gạc Ma. Từ bãi đá ngầm, TC đã biến nó trở thành một đảo nhân tạo với ý đồ sử dụng nơi đây như một cảng nước sâu, một căn cứ hỗn hợp với chức năng quân sự, thông tin hậu cần…vì đảo nhân tạo Gạc Ma nằm giữa quần đảo Trường Sa là địa điểm chiến lược lý tưởng để kiểm soát phần lớn tuyến đường liên lạc trên biển cũng như các hoạt động hàng hải, tàu chiến hải quân ở Biển Đông. Ý đồ của Bắc Kinh là mở rộng hoạt động quân sự đến cực Nam Biển Đông, đe dọa Việt Nam, Philippines, Malaysia và cả Hải quân Hoa Kỳ.
[2] HOÀNG SA & TRƯỜNG SA: Quần đảo Hoàng Sa của VNCH bị Tàu Cộng cưỡng chiếm năm 1974, có ảnh hưởng rất to lớn đến đường vận chuyển quan trọng chạy xuyên Biển Đông, những mỏ dầu, khí đốt khổng lồ của khu vực này. Tân Hoa xã cho biết, một sân bay dài 2 km sẽ phục vụ cho mục đích quân sự. Sân bay trên đảo Phú Lâm được hoàn chỉnh không ngừng, chiến đấu cơ có thể hạ cánh ở khu vực Hoàng Sa để tăng cường khả năng phòng thủ ở Hoàng Sa (Tây Sa) và Trường Sa (Nam Sa) của VN. Nằm ở trung tâm Biển Đông, 2 quần đảo này là một trong những khu vực chiến lược có nhiều tuyến đường biển nhất thế giới:
·        Eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của Indonesia và Malaysia), tất cả tàu hàng của các nước Đông Nam Á và Bắc Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nước trên thế giới phải đi qua eo biển này.
·        Các tuyến đường biển chiến lược này là yết hầu cho sự giao lưu hàng hóa của nhiều nước châu Á. Việc xuất nhập cảng hàng hóa của Nhật – Hàn đều phải đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước Đông Nam Á 55%, Australia 40% và TC 22% (trị giá khoảng 31 tỷ USD).
·        Từ năm 2014 đến 2015, Bắc Kinh liên tục bồi đấp và xây đảo trái phép ở 7 bãi đá để kiểm soát bất hợp pháp và khống chế Biển Đông. Các hình ảnh vệ tinh cho thấy 3 đường băng dài tới 3 km tại bãi đá Chữ Thập (Fiery Cross Reed), Vành Khăm (Mischief Reef) và Subi là thực thể lớn nhất trong 7 đảo nhân tạo. Các đường băng này đủ khả năng tiếp nhận mọi máy bay quân sự của TC.
·        Bắc Kinh đã xây dựng bất hợp pháp trên 400 tòa nhà trên bãi đá Subi ở Trường Sa. Tổng cộng Bắc Kinh đã xây dựng trái phép 1.652 công trình trên Biển Đông, cách bố trí như doanh trại quân đội trên đất liền và có thể chứa tới 2.400 binh sĩ.
Các nhà chiến lược Hoa Kỳ và phương Tây đều cho rằng, quốc gia nào kiểm soát được 2 quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa của VN sẽ khống chế được cả Biển Đông.
BÁN 3 ĐẶC KHU KINH TẾ CHO TÀU CỘNG DƯỚI HÌNH THỨC CHO THUÊ 99 NĂM:
Sau khi bọn Chệt Bắc Kinh chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa, Đảo Gạc Ma. Tàu Cộng không bao giờ từ bỏ tham vọng thôn tính Việt Nam, tiếp tục giành được nhiều dự án lớn tầm cỡ quốc gia, trong đó có dự án Bauxit Tây Nguyên, Formosa Hà Tĩnh, rừng đầu nguồn…như đã kể trên. Bây giờ Bắc Kinh đang thực hiện chiến luợc thôn tính 3 vị trí chiến lược: Vân Đồn, Bắc Vân Phong và đảo Phú Quốc bằng cách tung đô la mua bọn lãnh đạo chóp ĐCSVN bán 3 Đặc Khu Kinh Tế này cho Tàu Cộng dưới hình thức cho thuê 99 năm. Và suốt gần một tháng nay, dự luật Đơn vị Hành chánh – Kinh tế Đặc biệt đã trở thành chủ đề nóng bỏng thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận quần chúng trong và ngoài nước. Chưa bao giờ một dư luận được đưa trình Quốc Hội bù nhìn lại làm cho quần chúng khắp nước phẫn nộ và phản đối mạnh mẽ chủ trương bán nước của bọn lãnh đạo ĐCSVN.
Ba Đặc khu Kinh tế: Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc là 3 vị trí chiến lược mà bọn Chệt Bắc Kinh quan tâm đặc biệt nhắm tới:
[1] ĐẶC KHU KINH TẾ VÂN ĐỒN: Vân Đồn án ngữ cửa ngỏ phía Đông Bắc nhìn ra vịnh Bắc Bộ, chỉ cách Hải Nam của TC khoảng 200 hải lý. Đây là một vị trí chiến lược mà xưa kia tổ tiên anh hùng của chúng ta là Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán, Lý Thường chống quân Tống, Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên và ngày nay làn sống người Tàu Hoa Lục di cư sang đây, sinh con đẻ cái từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Tới một thời điểm nào đó, số lượng người Hoa đông hơn cả người Việt bản xứ. Họ có thể đưa ra yêu sách ly khai hòng tạo cớ cho Bắc Kinh can thiệp quân sự, lấy cớ bảo vệ kiều bào của họ giống như trường hợp Crimea có thể lặp lại tại Việt Nam.
Về mặt chiến lược, khi chiến tranh xâm lược Việt Nam bùng nổ, nếu khống chế được Vân Đồn vì nơi đây có một sân bay quốc tế đang được công ty Sun Group xây dựng, kết hợp với sân bay quân sự trên đảo Hải Nam, Bắc kinh sẽ dễ dàng khống chế toàn bộ vùng trời, vùng biển Đông Bắc Việt Nam.
[2] ĐẶC KHU KINH TẾ BẮC VÂN PHONG: Vân Phong là khu vực có địa thế đặc biệt, một bên là núi, một bên là biển. Quốc lộ 1A là tuyến đường duy nhất nối liền giao thông Bắc – Nam chạy qua đây, vì thế khi hữu sự chỉ cần một lực lượng vũ trang nhỏ cũng đủ sức cắt đứt tuyến đường giao thông Bắc – Nam bị tê liệt hoàn toàn.
Vân Phong gần với quân cảng Cam Ranh, có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngỏ miền Trung nhìn ra Biển Đông. Vịnh Vân Phong là vùng biển VN gần nhất với các tuyến đường biển quôc tế. Từ Bắc Vân Phong chạy theo Quốc lộ 26 chỉ chừng 130 km là đã tới Tây Nguyên, nóc nhà Đông Dương. Cách Tây Nguyên không xa là Campuchia, nơi đội quân PLA nằm vùng, khoác áo công nhân dưới vỏ bọc dự án kinh tế, đã túc trực sẵn sàng áp sát biên giới Việt Nam chờ thời cơ từ lâu.
Ngoài ra, vịnh Vân Phong là vùng biển có độ sâu trung bình từ 20 – 27 mét, đủ sức đón mọi loại tàu chiến lớn nhỏ của Hải quân Tàu Cộng. Đặc biệt địa thế ở nơi đây, nhờ sự che chắn của các đảo và bán đảo làm thành một vịnh kín gió, có giá trị giống như một vịnh Cam Ranh thứ hai mà diện tích mặt biển vịnh Vân Phong thậm chí còn lớn gấp 3 lần vịnh Cam Ranh. Kiểm soát được vịnh Vân Phong, Tàu Cộng có thể uy hiếp tàu chiến ra vào vịnh Cam Ranh chỉ cách đó khoảng 65 km, đồng thời vô hiệu hóa các cơ sở quân sự của Việt Nam tại vịnh Cam Ranh.
[3] ĐẶC KHU KINH TẾ PHÚ QUỐC: Đảo Phú Quốc là đảo lớn nhất nằm trên vịnh Thái Lan, cửa ngỏ phía cực Nam nhìn ra Ấn Độ Dương trong tầm nhìn chiến lược Indo – Pacific cách bờ biển Kiên Giang 46 km, nhưng chỉ cách bờ biển Campuchia chỉ có 26 km. Từ năm 2016, Chính phủ Campuchia đã cho Bắc Kinh thuê 20% chiều dài bờ biển khoảng 90 km trong 99 năm để xây dựng cảng biển. Theo ông Geoff Wade, một chuyên gia về Châu Á thuộc Đại Học Quốc gia Australia, cảng nước sâu mà Bắc Kinh đang xây dựng tại đây có khả năng cho hầu hết các tàu chiến các loại neo đậu.
Từ đây, chúng ta có thể nhận thấy, nếu TC là nhà đầu tư nước ngoài thuê đất 99 năm ở Phú Quốc thì Phú Quốc sẽ kết hợp với Sihanoukville sẽ trở thành là một tam giác chiến lược kinh tế mang lại lợi nhuận khổng lồ cho TC. Ngoài ra, Bắc Kinh đã chuẩn bị thời cơ khi thuê đảo Phú Quốc để can thiệp quân sự, đánh chiếm đảo để đòi chủ quyền đảo Phú Quốc trả lại cho chính phủ Campuchia.
MUỐN BIẾT HIỂM HỌA CHO TC THUÊ 3 ĐẶC KHU KINH TẾ 99 NĂM – HÃY HỎI TỈNH TRƯỞNG SIHANOUKVILLE:
Trong một báo cáo của Tỉnh trưởng Sihanoukville gởi chính phủ, báo động tình trạng xã hội đen, theo chân đầu tư Tàu Cộng, thao túng thành phố cảng. Thị trưởng Yun Min cho biết: “Sự hiện diện của người Hoa và tiền đầu tư của Tàu Cộng làm tội phạm và tình trạng mất an ninh gia tăng nghiêm trọng ở thành phố cảng và tỉnh Sihanoukville”.
Trong những năm gần đây, tại tỉnh Preah Sihanoukville, miền Tây nam Campuchia, thị trường bất động sản tăng nhiệt do những nguồn tiền lớn từ Hoa Lục ồ ạt đổ sang xây nhà hàng, sòng bạc, cao ốc và tình trạng giá thuê phòng khách sạn cũng leo thang và hiện tượng người Tàu nhậu nhẹt say xỉn ồn ào, đập phá trong các quán ăn. Nhưng, nghiêm trọng đáng lo nhất là các tổ chức tội phạm và xã hội đen Hoa Lục lợi dụng thời cơ mở địa bàn hoạt động tại Sihanoukville, bắt cóc tống tiền các doanh nhân TC, gây rối loạn trị an tại địa phương.
Kết quả chỉ trong thời gian ngắn, TC đầu tư ồ ạt vào nước này, chủ yếu là xây cất Casino với hơn 30 Casino đang hoạt động và gần 100 cái casino nữa đang xây cất. Đặc khu kinh tế thì có đến 90% là công ty TC, kéo theo lượng khách du lịch từ Hoa Lục sang, năm ngoái có gần 150.000 lượt người. Tuy nhiên chỉ tạo ra được 5% số việc làm cho dân bản địa và chủ yếu là lao động rẻ tiền, phần đông hành nghề đấm bóp cho khách du lịch Hoa Lục, còn các vị trí lương cao đều do người Tàu từ Hoa Lục sang đảm nhiệm.
Với Sihanoukville và Phú Quốc trấn ngự vịnh Thái Lan, Vân Đồn và Vân Phong chế ngự dọc Biển Đông thì chiến lược lưỡi bò của TC sắp sửa hoàn thành, cũng như Belt Road cũng phát triển nhanh chóng. Vì vậy, nền du lịch bản địa và văn hóa truyền thống của xứ Chúa Tháp cũng bị nhấn chìm bởi làn sóng Casino và bọn xã hội đen đến từ Hoa Lục.
Theo American Thinker số ra ngày 1/12/2016 đưa tin, Bắc Kinh hiện đang thuê hơn 20% chiều dài bờ biển Campuchia, TC đang xây dựng một cảng nước sâu chiến lược trải dài 90 km trên bờ biển Campuchia trong 99 năm. Cảng nước sâu nầy đủ lớn để đón tàu du lịch, tàu vạn tải hoặc tàu chiến hải quân với trọng lượng 10.000 tấn. Tờ báo còn lưu ý, cảng nước sâu này chỉ cách khu vực tranh chấp Biển Đông vài trăm cây số, có thể giúp Bắc Kinh kiểm soát các hoạt động vận chuyển, đánh bắt hải sản, khai thác năng lượng…
Riêng diện tích canh tác đất nông nghiệp Campuchia bị người Tàu thuê đã lên tới 2,14 triệu ha, chiếm hơn một nửa diện tích canh tác của quốc gia này với giá rẻ mạt 30 USD / một hecta. Một số lớn người Tàu lao động đến từ Hoa Lục ồ ạt nhập cư theo dự án để khai thác đất đai, xong việc thì họ không quay về nước. Họ ở lại lấy vợ người Campuchia để định cư vĩnh viễn.
“TÀU CỘNG HOÁ” THÀNH PHỐ SIHANOUKVILLE CỦA CAMPUCHIA:
Thành phố cảng Sihanoukville đang dần dần biến thành vùng đất của người Tàu, khiến người dân Camphuchia bất bình. Doung Sokly, một phụ nữ 30 tuổi bán đồ uống, thức ăn nhẹ và thuốc lá trên xe chiếc xe đẩy, buồn bã nói: “Tôi đã lăn lộn kiếm sống bên bãi Independence suốt 8 năm qua. Chẳng còn bao lâu nữa, chúng tôi sẽ không thể tự nuôi sống bản thân. Công việc kinh doanh đang sắp lụi tàn.” Cách đó không xa, công việc kinh doanh lại đang bùng nổ tại các sòng bạc đông nghịt khách Tàu. Chung quanh đó là các nhân viên giám sát và giữ an ninh mắt cú vọ  sắc như đại bàng.
Trước sự xâm nhập ồ ạt đó của người Tàu Hoa Lục, ngoại trừ những người Campuchia làm việc tại các khách sạn và sòng bạc, phần lớn người dân có thu nhập trung bình là 1.100 USD/ một năm, ít được hưởng lợi từ những khoản đầu tư này và sự oán giận của người dân Campuchia đang ngày một gia tăng.
“Kinh doanh của tôi đã giảm một nửa” – Chhim Phin, chủ một nhà hàng hải sản tại bãi biển Independence từ năm 2003, nói tiếp: “Chúng tôi thường có nhiều du khách phương Tây đến thưởng thức món ăn của Campuchia. Nhưng khách du lịch Tàu không muốn ăn đồ ăn Khmer và trải nghiệm phong tục địa phương. Họ chỉ thích ăn thức ăn của họ”. Bên cạnh nhà hàng của ông, trước đây có nhiều quán bar phục vụ “tây ba lô” giờ chỉ còn là những đống đổ nát”. Ông kết luận câu chuyện: “Thành thật mà nói, tôi ấn tượng xấu với khách Trung Quốc. Họ rất thô lỗ”.
Sự đầu tư ồ ạt của TC không có nghĩa là đường sá và cơ sở hạ tầng ở Sihanoukville trở nên tốt hơn. “Tất cả việc xây dựng họ đang làm lợi cho người Tàu,” Koeun Sao nói. “Chủ đất được hưởng lợi, nhưng dân thường chẳng được gì”, anh nhấn mạnh.
KOH KONG nằm ở phía Tây Nam, giáp với Thái Lan nhìn ra vịnh Thái Lan. Đây là vùng biển kém phát triển. Năm 2008, tập đoàn UDG (Phát triển Liên Hiệp Thiên Tân) của TC, đã được chính phủ Campuchia cho thuê 99 năm trong một dự án được gọi là “Khu thử nghiệm”. Bắc Kinh đang tiến hành xây dựng một cảng biển, một sân bay và một thành phố trên phần đất có diện tích 45.000 hecta với sự cho phép của Thủ tướng Hun Sen. Người dân Campuchia bản xứ cho biết, họ bị cưỡng chế rời khỏi đất đai của họ trong khi nhà cửa bị tháo dỡ và đốt sạch. Những người dân địa phương bị cưỡng chế đất đai của họ và tài nguyên xung quanh, họ đã bị tước đoạt thông qua lường gạt, bạo lực và gian lận.
KẾT LUẬN:
Tôi hy vọng bài học về mối hiểm họa của Campuchia cho Tàu Cộng thuê tỉnh Sihanoukville và Koh Kong 99 năm sẽ cảnh tỉnh những người lãnh đạo ĐCSVN và Quốc Hội bù nhìn hãy suy nghĩ lại, hủy bỏ triệt để và toàn bộ “Luật về Đặc khu Kinh Tế”, bán cho Tàu Cộng 3 Đặc khu Kinh tế Vân Phong, Bắc Vân Đồn và đảo Phú Quốc dưới hình thức cho thuê 99 năm để tránh những sai lầm gây ra đại họa muôn đời cho dân tộc. Hơn nữa, 3 vị trí này nhằm phục cho chiến lược bành truớng về quân sự của Bắc Kinh, chứ không phải đơn thuần về kinh tế.
Đừng thách thức sự phẫn nộ của quần chúng tổng biểu tình, phản đối những tên lãnh đạo ĐCSVN và Quốc Hội bù nhìn sắp bấm nút bán 3 Đặc Khu Kinh Tế kể trên cho Tàu Cộng dưới hình thức cho thuê 99 năm. Đừng quên rằng, quần chúng phẫn nộ ồ ạt xuống đường là hồi chuông báo tử cho ĐCSVN bán nước phản quốc!!! 
       Tổng hợp & Nhận định
 NGUYỄN VĨNH LONG HỒ
    Ngày 9 tháng 6 năm 2018
_______________________________________________

Từ Đặc Khu Tới Đặc Khu – Hoãn để tìm kế sách

Trần Khải
Vậy là hoãn chuyện đặc khu kinh tế… Hiển nhiên là Đảng CSVN muôán câu giờ… bởi vì thấy phản ứng người dân  ngườøi người đều chống… Bởi vì làm 3 đặc khu là bán nước lộ liễu quá… không giấu ai được.
Bản tin Zing  ghi rằng: Chính phủ đề nghị lùi thời gian thông qua luật đặc khu…
Bản tin naỳ viết:
“Chính phủ đã thống nhất với Ủy ban Thường vụ Quốc hội lùi thông qua dự án luật đặc khu sang kỳ họp thứ 6 và không còn thời hạn thuê đất đến 99 năm.
Theo thông cáo được phát đi lúc 3h sáng 9/6, Chính phủ đã thống nhất với Ủy ban Thường vụ Quốc hội việc trình Quốc hội xem xét lùi việc thông qua Dự án Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (luật đặc khu) từ kỳ họp thứ 5 sang kỳ họp thứ 6 (cuối năm 2018) để có thêm thời gian nghiên cứu, hoàn thiện.
Việc đề nghị lùi thông qua dự án luật được thực hiện sau khi tiếp thu các ý kiến tâm huyết, trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội, các nhà khoa học, nhà kinh tế, chuyên gia, cử tri và nhân dân cả nước.”
Nghĩa là không bác bỏ, mà chỉ hoãn thôi…
Trong khi đó, một bài viết ám chỉ rằng các nhóm lợi ích tư bản đỏ đang lèo lái hướng đi của chính phủ Hà Nội.
Bài viết trên VOV/Tia Sáng có nhan đề “Không để giới tài phiệt can dự sâu vào quản trị quốc gia” trong đó viết:
“Khi một quốc gia bị lợi ích của một số nhỏ người giàu và quyền thế nắm giữ thì thường đi vào ngõ cụt của sự phát triển.
Ở những quốc gia có nền quản trị bằng pháp luật yếu và quyền sở hữu tài sản không rõ ràng, nhóm nhỏ người giàu và quyền thế kiểm soát nguồn lực vật chất chính ở một đất nước. Họ cần mua hoặc tìm cách kiểm soát các lực lượng an ninh, tòa án, quan chức, truyền thông… để làm giàu và để bảo vệ tài sản của mình. Sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững của một quốc gia có liên quan chặt chẽ đến việc thiết lập hệ thống có thể đảm bảo quyền sở hữu tài sản. Một thể chế như vậy mới có thể khiến Việt Nam bứt phá, và tránh đi vào ngõ cụt của sự phát triển do bị bòn rút kiệt quệ vì lợi ích cá nhân của một nhóm nhỏ giàu có và quyền lực.”
Câu chuyện đặc khu đã làm cả nước sôi sục… vì không ngời CSVN bán nước trắng trợn giữa ban ngày ban mặt như thế.
Bản tin VOA kể rằng  hôm 7/6, Báo Người Lao động trích lời Thượng tướng Nguyễn Văn Được, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam, nói: “Đề nghị Đảng, Nhà nước xem xét một cách thận trọng về Luật Đặc khu; mong Tổng Bí thư nghiên cứu kỹ lưỡng, cân nhắc, vì chậm một chút cũng không sao.”
VOA kể thêm:
“Ông Lê Xuân Thân, trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa, được báo Tuổi trẻ trích lời nói: “Về các lo ngại về thời gian cho thuê đất quá lâu, Quốc hội đang có hướng bàn thời gian giao đất 70 năm – bằng thời gian theo Luật Đất đai hiện tại.”
Trong gần hai tuần qua, hàng loạt chuyên gia kinh tế như các tiến sĩ Lê Đăng Doanh, Vũ Thành Tự Anh, chuyên gia Phạm Chi Lan, luật sư Trương Thanh Đức, và nhiều đại biểu quốc hội liên tục nêu quan điểm răng mô hình đặc khu đã lỗi thời, khả năng thành công sẽ rất thấp.”
Trong khi đó, bản tin RFA kể về làn sóng phản đôái bằng: Kiến nghị, thư ngỏ…
Bản tin này viết:
“Nhiều tổ chức xã hội như Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng, Hội đồng Liên kết Quốc nội Hải ngoại Việt Nam, và cả tôn giáo như Ủy Ban Công Lý thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong những ngày qua đã đưa ra Tuyên cáo, Thư Kiến nghị kêu gọi người khác cùng ký tên gửi đến Quốc Hội Việt Nam yêu cầu hoãn hoặc không bấm nút thông qua dự thảo luật về các đặc khu kinh tế mà cụ thể là Vân Đồn ở phía Bắc, Vân Phong ở miền Trung và Phú Quốc ở phía Nam.
Một số nhân sĩ- trí thức cũng có thư ngỏ riêng gửi cho lãnh đạo Việt Nam nêu rõ quan ngại của bản thân họ về những nguy cơ nếu Luật Đặc Khu được thông qua.
Lập luận chính yếu được nêu ra là ba địa điểm vừa nêu có vị trí trọng yếu đối với an ninh quốc gia mà nếu giao cho nước ngoài một thời gian dài đến 99 năm, mà trong trường hợp này, khả năng rơi vào bẫy của nước láng giềng Trung Quốc là rất lớn. Tham vọng bành trướng của Bắc Kinh qua kế hoạch “một vành đai, một con đường” được nêu rõ.
Trong bản tuyên cáo của Hội đồng Liên kết Quốc nội Hải ngoại Việt Nam có đoạn nguyên văn: “Người Việt Nam trong và ngoài nước, bất kể thành phần nào, khuynh hướng nào, chúng ta phải cương quyết lên tiếng, cần phải có hành động cấp thời để cùng nhau “Cứu Dân Cứu Nước” nếu không, thế hệ chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử và mang tội với thế hệ con cháu muôn đời sau.”…”
Trong khi đó, báo Người Lao Động  kể về kinh nghiệm đặc khu kinh tế của Cam Bốt, và không bao lâu, Cảng Sihanoukville trở thành thuộc địa của Hoa Lục, nơi tiền nhân dân tệ tràn ngập, và dân Campuchia vẫn nghèo thê thảm.
Bản dịch của báo Người Lao Động có nhan đề “Đặc khu kinh tế: Được và mất – Nhân dân tệ phủ kín Sihanoukville” trong đó viết:
“Hy vọng có thêm công ăn việc làm từ đầu tư Trung Quốc của cư dân Sihanoukville sớm lụi tàn. Thành phố biển đang “thay da, đổi thịt” chóng mặt của Campuchia dần biến thành một tiểu Trung Quốc.
Với sự đầu tư ồ ạt từ Trung Quốc, các đặc khu kinh tế (SEZ) mọc lên dày đặc tại Campuchia. Tỉnh Sihanoukville với thủ phủ cùng tên hiện là khu vực có nhiều SEZ nhất tại quốc gia Đông Nam Á này.
Trong tổng số 7 SEZ ở đây, đặc khu Sihanoukville (diện tích hơn 11 km2) là lớn nhất và do Trung Quốc vận hành. 90% số công ty đang hoạt động trong đặc khu có tổng số vốn hơn 3 tỉ USD này là của Trung Quốc. Các công ty nói trên nhận được hàng loạt chính sách miễn thuế nhập khẩu, xuất khẩu và ưu đãi thuế doanh nghiệp.
…Thành phố với chưa đầy 90.000 dân sẽ sớm có tới 30 sòng bài. 10 sòng bài trong đó mới khởi công xây dựng trong năm 2017, chủ yếu do người Trung Quốc sở hữu hoặc điều hành và cũng phục vụ cho khách Trung Quốc là chính…”
Vậy là kinh nghiệm vàng cho Việt Nam đó… Cứ nằm mơ đặc khu kinh tế mãi sẽ hỏng cả.
_________________________________________________________

Nhân Vụ Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc: Chúng Ta Đã và Đang Thực Sự Mất Nước

Phạm Cao Dương
                    Trước khi vào đề: Người Tàu dù là Tàu Quốc hay Tàu Cộng, Tàu thời Nhà      Hán, Nhà Đường, Nhà Tống, Nhà Minh…,  Tàu ở thời nào đi chăng nữa cũng vẫn là người   Tàu, vẫn mãi mãi là tham lam, tàn bạo và hiểm độc.  Đó là điều đầu tiên chúng  ta cần ghi nhớ             trước khi bàn về vấn đề này.  Chuyện người Tàu thường xuyên tìm cách xâm chiếm Việt Nam với       những mưu toan mỗi ngày một tinh vi thâm độc hơn trong lịch sử hiện đại là chuyện thường trực          xảy ra từ lâu rồi nhưng nhiều người vì dễ tính, dễ quên nên chỉ nhớ lõm bõm.  Vì vậy tác giả xin
           được kính gửi tới bạn đọc một bài viết không lâu trước đây của tác giả để bạn đọc có dịp nhớ lại           cho chính xác, đầy đủ hơn.  Đúng ra đây là phần tóm lược bài thuyết trình tác giả trình bày tại     buổi hội thảo mang chủ đề “38 Năm Nhìn Lại: Hiện Tình và Tương Lai Việt Nam” do Hội Ái Hữu Bưởi  Chu Văn An Nam California tổ chức ngày 14 tháng 7 năm 2013 tại Coastline Community College, Thành Phố Westminster, California, Hoa Kỳ.  Bài viết tuy được thực hiện từ         năm trước, từ đó đến nay nhiều biến cố quan trọng đã xảy ra, nhưng những gì được nêu lên vẫn         còn nguyên những giá trị căn bản liên quan đến nguổn gốc sâu xa của vấn đề, của nó, đặc biệt là         tham vọng và chủ trương bành trướng không bao giờ thay đổi của người Tàu dù là Tàu nào đi        chăng nữa và như tác giả kết luận: Chính nghĩa của Người Việt Quốc Gia ngay từ những ngày          đầu, từ thời Chính Phủ Trần Trọng Kim hồi năm 1945,  xuyên qua Quốc Gia Vìệt Nam của             Quốc Trưởng Bảo Đại  thời trước năm 1954, rồi Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa ở Miền Nam luôn         luôn là đúng.  Sự toàn vẹn lãnh thổ đã luôn luôn được coi là trọng và được nỗ lực bảo toàn.    Lịch sử đã chứng minh điều này.
         
“Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di” (Lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm 1473)
  
                              “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm
cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và  
Xin-ga-po.  Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy
có nhiều khoáng sản… xứng đáng với s tốn kém cần thiết để  
chiếm lấy…  Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta  
có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này,    
lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-  
Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”
                              “Chúng ta phải chinh phục trái đất.  Mục tiêu của chúng ta 
là toàn thể trái đất” 
Mao Trạch Đông tuyên bố trước Trung Ương
Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1959
          Nói về hiện tình đất nước ở vào thời điểm 2013 mà không nói tới tham vọng và cuộc xâm lăng của người Tàu, cuộc xâm lăng mới nhất, đang xảy ra trên lãnh thổ của nước ta là một điều vô cùng thiếu sót.  Vì vậy thay vì góp thêm nhận định về hiện trạng kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở trong nước hiện tại, tôi xin phép Ban Tổ Chức và toàn thể quý vị cho tôi được nói đôi chút về đề tài nóng bỏng này, đề tài tôi tạm gọi là “Chúng Ta đã và Đang Thực Sự Mất Nước”.
          Vì thời giờ có hạn, tôi chỉ xin nói ra những điểm chính. Sau buổi hội thảo ngày hôm nay tôi sẽ xin ghi lại những chi tiết đầy đủ hơn và sẽ xin gửi tới quý vị sau. Cũng vì thì giờ có hạn, tôi sẽ không nói tới hay đúng ra không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò của Trung Cộng và những gì đế quốc mới này đã và đang làm ở trong vùng biển này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết lập các cơ cấu hành chánh, chánh trị, quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe dọa các quốc gia liên hệ chặn bắt, các tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là ngư dân Việt Nam…  Lý do là vì tất cả đã trở thành đề tài thời sự thế giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả hàng ngày trên các đài phát thanh, các đài truyền hình quốc tế cũng như các đài phát thanh, đài truyền hình của người Việt, trên các trang mạng từ nhiều năm nay và đương nhiên trong những buổi gặp gỡ giữa anh em, bạn bè chúng ta.
          Tôi cũng không nói hay nói rất ít về bản “Tuyên Cáo về việc Nhà Cầm Quyền Trung Quốc Liên Tục Có Những Hành Động Gây Hấn, Xâm Phạm Nghiêm Trọng Chủ Quyền Toàn Vẹn Lãnh Thổ Việt Nam Trên Biển Đông”, ngày 25tháng 6 năm 2011 và bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước Trong Tình Hình Hiện Nay” của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước gửi Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 10 tháng 7 cùng năm và nhiều kiến nghị khác mà mọi người đều biết trước là sẽ không bao giờ được trả lời hay chỉ được trả lời quanh co hay gián tiếp.
          Tôi cũng không nói hay nói rất ít về lối trả lời gián tiếp các nhà trí thức kể trên của Đảng CSVN xuyên qua một bài báo đăng trên tờ Đại Đoàn Kết theo đó những người cầm quyền ở Việt Nam hiện tại đã tỏ ra vô cùng lúng túng trước câu hỏi về bản công hàm của Phạm Văn Đồng nhân danh Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà gửi Chu Ân Lai, Chủ Tịch Quốc Vụ Viện nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đây là lần đầu tiên những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã thừa nhận là họ đã lựa chọn nhường các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng để đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Cộng trong cuộc xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực của họ sau đó.  Đây cũng là lần đầu tiên họ, những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, công nhận các chính phủ Quốc Gia Việt Nam thời Quốc Trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa là những chính phủ hợp pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo Hiệp Định Genève cũng như những nỗ lực không thể chối cãi mà những chính phủ quốc gia này đã làm để bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính phủ này tồn tại.
          Lý do chính yếu khiến tôi không nói hay chỉ nói rất ít về những sự kiện kể trên là vì tất cả hiện thời đang xảy ra ở Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mới chỉ là diện, là bề ngoài, là mới chỉ là bắt đầu.  Tất cả rồi cũng sẽ được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và dù muốn hay không Hoàng Sa cũng đã mất rồi, còn Trường Sa thì cũng mất nhiều phần, còn nhiều thế hệ nữa Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có cơ hội lấy lại được.  Trung Hoa Cộng Sản trong mọi hoàn cảnh cũng đã chiếm được và giữ được những phần quan trọng kể từ sau khi họ chiếm Hoàng Sa từ trong tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng năm 1974 trong sự im lặng, đồng lõa của chính quyền Cộng Sản Hà Nội. Cái giá để cho Đảng CSVN xâm chiếm miền Nam và thống nhất đất nước ta bằng võ lực phải nói là quá đắt cho dân tộc Việt Nam và cho chính họ.
          Hoàng Sa, Trường Sa hay rộng hơn Biển Đông chỉ là những gì nổi bật bề ngoài, là cái diện ai cũng có thể thấy được trong tiến trình mất nước của dân tộc Việt Nam đầu Thế Kỷ 21 này.  Vậy thì cái điểm nằm ở đâu?  Thưa quí vị, nó nằm ngay trên đất liền, trên lãnh thổ của chính quốc Việt Nam.  Nó nằm rải rác ở khắp lãnh thổ nước ta chứ không riêng ở biên giới phía bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta đã ghi nhận những sự nhổ và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những sự chiếm giữ các cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến 1979 giữa hai đảng Cộng Sản Á Châu và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên 1950, khi CSVN mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của Trung Cộng nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián tiếp chống lại chính quyền Quốc Gia Việt Nam lúc đó đã được thành lập bởi Cựu Hoàng Bảo Đại.  Những thắc mắc về sự mất mát này cho tới nay vẫn chưa được hoàn toàn giải tỏa dầu cho đã được nhiều người đòi hỏi.  Tôi sẽ nói thêm ở phần cuối về vấn đề này.  Có điều là đến giờ thì hai bên đã ký kết những thỏa ước và những cột mốc mới đã khởi sự được “cắm” rồi.  Những điểm này tuy nhiên chỉ là ở dọc vùng biên giới. Quan trọng hơn và nguy hiểm hơn, bức thiết hơn là những điểm, mà không phải là điểm hiểu theo ý nghĩa đen của danh từ, nằm sâu ngay trong lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới quyền quản lý của chính quyền Cộng Sản hiện tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền này.  Những điểm vừa cố định, nằm nguyên một chỗ, vừa di động khắp nơi trên lãnh thổ, điển hình là những mỏ bauxite trên cao nguyên, những khu rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngõ của những vùng biên giới Việt-Trung và Lào-Việt , những khu vực trúng thầu, những địa điểm thu mua các nông sản, những vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những trại nuôi cá, điển hình là trại nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao nhiêu mà các nhà cầm quyền địa phương sau cả gần chục năm không hề biết, những khu phố kiểu Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương … Tất cả đã trở thành những “thực dân địa”, những “colonies” của người Tầu ngay trong lòng của lãnh thổ Việt Nam, nơi những ủy ban nhân dân vẫn còn làm chủ. Nói cách khác, theo lời của các tác giả của Bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước …” ngày 10 tháng 7 năm 2011 mà tôi đã dẫn trên đây thì “…mặt trận nguy hiểm nhất đối với nuớc ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nước ta. Đó là mặt trận vừa uy hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân danh cùng nhau gìn giữ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, gây chia rẽ giữa nhân dân ta và chế độ chính trị của đất nước, vừa lũng đoạn nội bộ lãnh đạo nước ta, làm suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, làm giảm sút khả năng gìn giữ an ninh và quốc phòng của nước ta. Đánh thắng nước ta trên mặt trận nguy hiểm nhất này, Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả.”   Nói cách khác đó là chiến lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, còn nặng ra là chiếm luôn cả nước.   Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò đương nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.
                    Hãy tưởng tượng ngay trên Cao Nguyên Miền Nam, địa điểm chiến lược quan trọng nhất đã chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống nhất của lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn, nằm ngoài sự kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương của người Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tầu, không ai được nhòm ngó, không ai được ra vào. Họ được tự do mang người của họ vô, mang người của họ ra, được chở đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm soát nào.  Những người này là những người nào? những đồ này là những đồ gì?  Làm sao biết được, ai mà biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra?   Cũng vậy, ở những khu rừng đầu nguồn và ở những địa điểm của những công trình xây cất có tính cách căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản, dầu khí…những lãnh vực thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của quốc gia.   nhìn vào con số 90% các “gói thầu” thuộc loại này được mở ra ở trong nuớc đã lọt vào tay các nhà thầu Trung Cộng.  Nhiều gói lên tới hàng tỷ Mỹ kim với những món tiền lót tay không phải là nhỏ, từ 10% đến 15% tiền thầu.  Hậu quả là những công trình do họ thực hiện phần lớn có phẩm chất kém, thời gian thi công kéo dài trong khi các nhà thầu Việt Nam, vì không đủ vốn, không đủ thế lực chỉ còn bất lực, đứng bên lề các đại công trường trên đất nước mình.  Nhưng nguy hiểm hơn hết vẫn là nạn nhân công người Tầu do chính các chủ thầu người nước họ mang sang để lao động thay vì các nhân công bản xứ. Ở khắp nơi, từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Đồ Sơn đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, đến Đà Nẵng rồi vô tới Bình Dương và Cà Mau…chỗ nào có nhân công người Tầu đều có những khu cư xá riêng cho họ, kèm theo là các chợ búa, các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các nhà nghỉ, các quán cà phê, karoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ.  Người Việt Nam không riêng chỉ có thể đứng nhìn mà còn trở thành nạn nhân của tất cả những tệ hại do họ gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá phách, tiểu bậy, trêu gái, đánh lộn, kéo hàng trăm người đánh hội đồng người bản xứ khi có tranh chấp…
               Những người Tầu được gửi sang Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần nào?  Họ có phải thuần túy là dân lao động có tay nghề hay là những quân nhân thuộc những đơn vị đặc biệt, những đặc công tình báo được gửi sang để thực hiện một mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn?  Hiện tại chưa có gì là rõ ràng mà chỉ là ức đoán.  Có điều là họ hiện diện ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam mà các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương đều đã không kiểm soát được hay làm lơ không kiểm soát.  Mặt khác, nếu nhìn vào những gì Trung Cộng đã làm ở Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả ở Tây Tạng trong thời gian gần đây thì không ai là không khỏi lo ngại.  Tỷ lệ số người gốc Hán ở các xứ này đã tăng gia dáng kể và sự cạnh tranh cũng như kỳ thị với sự thiên vị của nhà cầm quyền đã gây nên những cuộc bạo loạn trầm trọng.  Liệu Việt Nam có thể tránh khỏi tình trạng đang xảy ra cho các nước này hay không?  Ta không được biết, nhưng chỉ nhìn vào miền cao nguyên với các công trình khai thác bauxite, với lượng nhân công gốc Tầu đông đảo, phần lớn là những thanh niên chưa có hay không có vợ, hậu quả của nạn giới hạn hai con của chính quyền Trung Cộng người ta không thể không lo ngại cho tương lai của miền đất chiến lược quan trọng bậc nhất của đất nước Việt Nam này, miền đất mà Hoàng Đế Bảo Đại coi trọng đặc biệt với danh xưng Hoàng Triều Cương Thổ.  Những  thanh niên này sẽ lấy các thiếu nữ Thượng, sẽ sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công dân xứ Thượng.  Nếu điều này xảy ra thì rất là êm thắm, chỉ trong vòng hai thế hệ hay ba chục năm, chưa tới năm mươi năm, thời gian thuê các rừng đầu nguồn với giá rẻ mạt, những người Thượng gốc Tàu sẽ trở thành chủ nhân của các cao nguyên và qua một cuộc đầu phiếu êm ả và hợp pháp, miền đất rộng lớn, nhiều tài nguyên này sẽ trở thành của Tầu và biết đâu qua một tiến trình tương tự toàn bộ cả nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh mới của nước Tầu, tỉnh Quảng Nam rộng trên ba trăm ngàn cây số vuông hay hơn nữa nếu bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt, sau hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, biên giới phía nam nước Tầu sẽ được mở rộng tới Vịnh Thái Lan về phía nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long.  Đó chính là ước mơ của những người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa qua họ không đạt được.  Điều này không phải là không thể đến cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào và dân tộc Căm-pu-chia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy ra một cách bất ngờ “trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng” nói theo lời của một tướng lãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong một đoạn video được phổ biến rất rộng rãi và trong một thời gian dài trước đây.  Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới nay chưa được phối kiểm.  Vị tướng lãnh này là Trung Tướng Phạm Văn Di, Chính Ủy Quân Đoàn 7 của quân đội này.
          Những gì tôi kể ra trên đây chỉ là những gì dễ thấy và được nhiều người thấy.  Còn có nhiều hiện tượng khác tiềm ẩn hơn, thâm độc hơn do người Tàu cố ý gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất của họ tràn ngập Việt Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực phẩm có chứa các hóa chất gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài người nói chung mà ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ.  Việc người Tàu xây hàng loạt nhiều đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự an toàn và phong phú của các đồng bằng châu thổ của các sông này, từ đó đe dọa cuộc sống của nhiều chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện tượng người ta cần chú ý. Chưa hết, chuyện Trung Cộng tung tiền ra và đứng sau hai nước ở phía tây Việt Nam là Căm Bốt và Lào cũng đã và chắc chắn sẽ còn gây ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam mà những gì Căm Bốt đã làm trong Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN vừa qua là một bằng cớ, y hệt những gì Cộng Sản Bắc Việt đã gây ra cho Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến tranh vừa qua.
          Trên đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem tới. Còn có những hiểm họa khác do chính những người lãnh đạo ở Việt Nam hiện tại vì tham lam, vì trình độ hiểu biết kém cỏi, vì kiêu căng, vì mang bệnh thành tích… đã và đang gây ra cho chính dân tộc mình. Tôi muốn nói tới việc xây dựng bừa bãi và cẩu thả các đập thủy điện ở khắp nơi mà Sông Tranh 2 chỉ là một trường hợp điển hình.  Nguy hiểm hơn nữa là việc xây dựng các nhà máy phát điện hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất chấp những kinh nghiệm khủng khiếp của người Nga ở Chernobyl, người Nhật ở Fukushima hay những sự thận trọng của người Pháp, người Đức, người Mỹ khi những người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng hoạt động các lò điện này ở nước họ. Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước giàu có, tiền bạc nhiều, lại có những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên viên giỏi, những người thợ có kinh nghiệm và vững tay nghề mà còn thận trọng tối đa như vậy, còn Việt Nam mình thì mặc dầu còn kém cỏi về đủ mọi mặt nhưng đã bất chấp tất cả.  Người ta đã không đếm xỉa gì đến sự cảnh cáo của dư luận quốc tế cũng như quốc nội, Giáo Sư Phạm Duy Hiển ở trong nước, Giáo Sư Nguyễn Khắc Nhẫn ở bên Pháp, những chuyên viên thượng thặng của người Việt đã hết lời can ngăn và đã viết nhiều bài điều trần với những lời lẽ vô cùng thống thiết nhưng không ai để mắt, để tai tới…cho đến khi đại họa xảy ra thì mọi sự đã quá muộn.  Nên nhớ là với Fukushima, người Nhật chỉ riêng để làm sạch miền biển liên hệ đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc, công sức và dự trù sẽ phải để ra bốn mươi năm mới thực hiện nổi. T ham nhũng và nhất là bệnh thành tích phải chăng là nguồn gốc của đại nạn này?  Việt Nam phải là nhất, là cái gì cũng có, nhất là ở thời đại Hồ Chí Minh, Đỉnh Cao Của Trí Tuệ Loài Người. Cuối cùng chỉ tội nghiệp cho người Chàm vì địa điểm thiết lập những nhà máy này chỉ cách Tháp Chàm có năm cây số.  Nếu chuyện gì xảy ra, con số hơn một trăm ngàn người còn sót lại của một dân tộc đã một thời hùng cứ ở miền trung và miền nam Trung Phần Việt Nam, có thời đã đánh bại người Việt, tràn ngập kinh đô Thăng Long, với một nền văn hoá giàu về hình tượng, nơi xuất thân của nhiều ca nhạc sĩ gốc Chàm sẽ một lần nữa bị tiêu diệt và lần này chắc chắn là lần chót.  Nên biết thêm là nhà cầm quyền ở Việt Nam hiện dự trù sẽ thiết lập tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy điện hạch tâm, phần lớn là ở miền Trung mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà, mỗi nhà 2 lò. Tất cả đều là mua của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc thăm viếng của các nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ.  Họ viện cớ là các nhà sản xuất đều nói là các lò họ làm là an toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà tin được những kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5 tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim trở lên.  Nếu chẳng may những vụ rò rỉ hay phát nổ của các lò xảy ra như ở Chernobyl hay Fukushima xảy ra thì một phần ba dân số cả nước, phần ba dân số bị coi là có quê hương  “đất mặn đồng chua”, là “đất càylên sỏi đá”, là “nghèo lắm ai ơi” với “mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn”, nơi “Trời làm cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương lan tràn, ngập Thuận An…”, bây giờ lại bị đe dọa có thêm một đại nạn mới do chính các nhà lãnh đạo của nước mình  gây ra treo sẵn trên đầu.
          Trên đây chỉ là một số những gì đã và đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của chúng ta mà mọi nguời ít nhiều còn quan tâm tới quê hương của mình, của ông cha mình đều nhận thấy. Còn rất nhiều chuyện khác lớn hơn, quan trọng hơn và có tính cách chiến lược hơn như sự lệ thuộc về chính trị, về kinh tế và luôn cả về văn hóa của Việt Nam vào Trung Quốc, nhất là việc cấm đoán người dân không được tỏ thái độ dù cho chỉ là để bày tỏ lòng yêu nước của mình, giam cầm, bắt bớ hành hạ, không cho họ biết tới những gì đã thực sự xảy ra liên hệ tới sự thịnh suy, tồn vong của quê hương và dân tộc họ.  Đa số người dân đều mù tịt và vì mù tịt nên đa số đều dửng dưng, nếu không nói là vô cảm. Nhiều người đã ví giai đoạn mất nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối với cái chết từ bàn chân đã lên tới đầu gối và đang từ từ lên dần cho đến khi miếng bông đặt trên mũi đương sự không còn chuyển động nữa.
          Câu hỏi được đặt ra là những người đang lãnh đạo đất nước ta hiện tại có biết rằng, như một truyền thống ngàn đời, Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay ít ra là những người lãnh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đã nuôi mộng làm chủ thiên hạ giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay không? Hay là họ vẫn tin tưởng vào “mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt” mà Cộng Sản Tàu đã tặng họ để tự lừa dối và lừa dối dân mình?  Câu trả lời là có.  Bằng cớ là năm 1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không ngọt, môi không theo răng bị răng cắn bật máu, Cộng Sản Việt Nam không những chỉ tố cáo trước người dân ở trong nước mà còn trước dư luận thế giới qua những tài liệu do chính họ xuất bản từ Hà Nội, theo đó Mao Trạch Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước đã nuôi mộng theo chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế giới, bắt đầu là Đông Nam Á. Trong hai tài liệu nhan đề  Sự Thật về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua bằng tiếng Việt do Nhà Xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1979 và tái bản năm 1980, và Chinese Aggression Against Vietnam, Dossier do Vietnam Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ những trang đầu, người ta có thể đọc được những chi tiết như sau:
           Ngay từ năm 1939, trong tài liệu nhan đề Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao Trạch Đông đã nhận định: “Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”  Tiếp đến, một bản đồ trong một sách giáo khoa đã vẽ nhiều lãnh thổ của các nước trong vùng biển Đông Nam Á và Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa.  Sau đó, năm 1959, trong một buổi họp của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, khi nói về bang giao quốc tế, Mao Trạch Đông phát biểu rõ hơn nữa về tham vọng thống trị toàn cầu của mình.  Lãnh tụ này nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất” hay hạn hẹp hơn và kế hoạch hơn: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với s tốn kém cần thiết để chiếm lấy…  Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”
          Về sự lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở biên giới Trung Việt, qua tài liệu Chinese Aggression Angainst  Vietnam , Cộng Sản Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 ký kết giữa Nhà Thanh và nước Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam ngay từ trước năm 1949, sau đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự xác nhận lại các công ước này bởi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vào năm 1957-1958, Cộng Sản Bắc Kinh lại sáp nhập thêm trên 90 địa điểm khác ở biên giới giữa hai nước.  Chưa hết, cũng theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số các cuộc xâm nhập lại tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978.  Cuối cùng ngày 10 tháng 2 năm 1979, hai tiểu đoàn chính quy Trung Cộng đã tiến sâu 2 cây số vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.  Vẫn chưa hết, trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai 1984-1987, sau một trận đánh ác liệt ở núi Lão Sơn, mà người Việt quen gọi là Núi Đất hay tọa điểm 1502, thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, quân Trung Cộng đã chiếm được núi này, 3.700 lính phòng thủ Việt Nam đã hoàn toàn bị tiêu diệt, xác của họ đã bị đơn vị chống hóa chất của bên địch thiêu hủy không còn vết tích.  Lão Sơn không phải là tọa điểm duy nhất bị quân Trung Cộng đoạt mà còn nhiều tọa điểm khác như các tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Sau trận này Việt Nam đã mất thêm từ 600 đếm 1000 cây số vuông lãnh thổ về tay Trung Quốc.  Có điều lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giấu nhẹm không cho dân chúng biết gì về trận chiến bi thảm này cho mãi đến khi Trung Cộng phổ biến phần nào trên các mạng của họ.  Điều nên biết là trong thời gian này Trung Cộng luôn luôn dùng thủ đoạn cho di dân của mình sang khai thác đất đai hay cư ngụ trên lãnh thổ thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau đó áp lực bắt Việt Nam phải công nhận những vùng đất này là thuộc nước họ.  Sự kiện này giải thích tại sao lại có chuyện điều đình và sửa lại các công ước mà trước Nhà Thanh đã ký với Pháp mà nội dung đã được hai phía làm sáng tỏ không lâu, trong các năm 1957, 1958 trước đó, như tôi đã nói ở trên qua các hiệp ước 1999, 2000.  Chiến thuật này đang được họ dùng ở Biển Đông trên một quy mô rộng rãi hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm Hoàng Sa và một số đảo thuộc Quần Đảo Trường Sa rồi tìm cách hợp thức hóa sau này.  Việt Nam giấu nhẹm nhưng Trung Cộng thì coi là quan trọng và quảng bá rộng rãi. Họ đã cho công bố hình ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm địa điểm Lão Sơn này, kèm theo hình ảnh những công sự và đường sá mà họ thiết lập sau đó, nhắm về phía Việt Nam.  Những sự kiện này khiến cho những ai quan tâm đến sự sống còn của đất nước không khỏi không liên tưởng tới sự kiện Giang Trạch Dân đã bay thẳng từ Trung Quốc đến bơi ở biển Mỹ Khê, Đà Nẵng như là biển nhà của mình thay vì phải qua Hà Nội gặp chủ nhà trước, hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến dự Hội Nghị OPEC, hay chuyện Đảng Cộng Sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các thanh niên người Hoa rước đuốc thế vận qua Saigon và các đảo trong khi mọi cuộc tụ tập của người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán.
          Trước tình trạng cực kỳ nguy hiểm kể trên, câu hỏi được đặt ra là khả năng đề kháng của người Việt Nam như thế nào và những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đã có thái độ ra sao và đã làm gì? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta còn cần có nhiều buổi hội thảo khác với những đóng góp của nhiều thuyết trình viên khác. Tạm thời tôi chỉ xin mời quý vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đã đề cập đến trong phần đầu của bài thuyết trình hay những bức thư mà Hòa Thượng Thích Quảng Độ hay những bài viết của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại Sứ Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người khác ở trong nước viết trong ít năm gần đây.  Trước khi ngưng lời, tôi xin được trích dẫn lời của Thiếu Tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó Tư Lệnh kiêm Tham Mưu Trưởng Quân Khu 2, Chỉ Huy Trưởng Mặt Trận Hà Giang trong thời gian chiến tranh biên giới, khi ông trả lời Biên Tập Viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do, RFA, ngày 17 tháng 2 năm 2013 về sự kiện là “nhiều gia đình liệt sĩ của cuộc chìến 1979 đã không biết hài cốt con em mình nằm tại đâu vì sau đợt cắm mốc biên giới thì phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đã thụt sâu về phía Trung Quốc.  Thiếu Tưóng có nghĩ rằng nhà nước phải làm một điều gì đó để mang lại công bằng cho những người này hay không?”  Nguyên văn câu trả lời của Tướng Lê Duy Mật như sau:
“Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc, nếu không phải bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc thì mới có thể giải quyết được.”
          Câu trả lời của Tướng Mật là về các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến Việt Trung 1979 và 1984-1987, nhưng nội dung của nó đã bao gồm toàn bộ các vấn đề liên hệ đến bang giao Trung-Việt trong hiện tại. “Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc” là nguồn gốc của tất cả.  Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài cho buổi thuyết trình ngày hôm nay, chưa kể tới tình trạng vô cảm của không ít người Việt trước hiện tình vô cùng nguy hiểm của đất nước, sự mất tin tưởng của đa số người dân và sự bất lực của giới trí thức và sự bất cập không đối phó được với tình thế mới trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến kinh tế, xã hội và luôn cả văn hóa ở Việt Nam sau 38 năm Cộng Sản làm chủ toàn thể đất nước, và 27 năm đổi mới.  Lãnh đạo cấp cao của hai đảng Cộng Sản đã thỏa hiệp với nhau những gì trên đầu người dân Việt Nam từ sau cuộc chiến biên giới Trung-Việt, từ sau Hội Nghị Thành Đô 1990, từ sau những buổi gặp gỡ của Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và sau này Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang với các nhà lãnh đạo Trung Quốc?  Chỉ có những người này mới biết được nhưng không bao giờ và sẽ chẳng bao giờ họ nói ra cả.  Về điểm này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn các ông Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư, 1473, nguyên văn như sau:
“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di.”
          Lịch sử đã được chép, đang đuợc chép và sẽ còn được chép dù cho môn sử học, vì lý do nào đó, trái với truyền thống của dân tộc, trái ngay cả với nhận định “dân ta phải biết sử ta” của Hồ Chí Minh và ngược lại với chương trình giáo dục của bất cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào, kể cả các quốc gia tiền tiến về khoa học và kỹ thuật, không còn được coi là quan trọng trong chương trình giáo dục của Việt Nam hiện tại.  Đây cũng là một lý do khác đã và đang làm cho chúng ta mất nước.
          Để kết luận ta có thể nói rằng những gì đang xảy ra trên lãnh  thổ Việt Nam dưới sự cai trị của người Cộng Sản hoàn toàn trái với thời người Việt Quốc Gia trước đó.  Với Người Việt Quốc Gia dù là ở bất cứ thời nào, từ Chính Phủ Trần Trọng Kim hồi năm 1945, xuyên qua Quốc Gia Việt Nam hồi trước năm 1954, rồi Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa ở Miền Nam, sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc luôn luôn được coi là tối quan trọng và mọi người phải có nhiệm vụ bảo toàn.  Lịch sử đã chứng minh điều này.
          Xin cảm ơn Quý Vị đã kiên nhẫn lắng nghe hay đã đọc và đọc lại bài thuyết trình này.  Xin kính chào Quý Vị.
Chú thích:  Đây là phần tóm lược bài thuyết trình tác giả trình bày tại buổi hội thảo mang chủ đề “38 Năm Nhìn Lại: Hiện Tình và Tương Lai Việt Nam” do Hội Ái Hữu Bưởi -Chu Văn An Nam California tổ chức ngày 14 tháng 7 năm 2013 tại Coastline Community College, Thành Phố Westminster, California.
_________________________________________________

Rút bớt thời gian thuê đặc khu – một bước lùi lươn lẹo

Thời gian cho thuê 99 năm là thủ thuật của con buôn. Thay vì giá hàng 1 đồng thì rao bán 99 xu. Thay vì 1 thế kỷ thì bớt 1 thành 99 năm. Thủ đoạn lươn lẹo đó được tiếp tục với lời rao hàng hạ giá tiếp của Nguyễn Xuân Phúc: giảm thời gian cho thuê đất đặc khu.
Nhưng vấn đề không chỉ ở thời hạn thuê Đặc Khu!
Điểm mấu chốt và mục tiêu tối hậu của tập đoàn Ba Đình là dọn đường để dâng thêm 3 vị trí chiến lược của Việt Nam cho thiên triều phương Bắc. Đó mới là “chủ trương lớn của đảng”.
99 năm chỉ là âm mưu được đảng cướp quyền đưa ra để thăm dò và mặc cả với dư luận. Với bản chất xảo quyệt của những con buôn dân bán nước, tập đoàn cai trị đã tìm cách đánh vào tâm lý phẫn nộ của quần chúng bằng con số 99 năm – 1 thế kỷ trừ một. Người dân phản đối 99 thì cửa hàng bán nước sẽ thay bảng tiếp thị bằng con số 70, 50… Miễn sao sau cùng thì chủ trương lớn của đảng con hoang vẫn phải được thực hiện để làm hài lòng các cha Tàu phương Bắc.
Và đảng sẽ được các sư đoàn bút nô tâng bốc như lời của Nguyễn Xuân Phúc vừa mở đầu cho màn hạ giá lừa bịp: “Chúng tôi phải điều chỉnh thời gian thuê đất xuống một cách hợp lý, phù hợp với nguyện vọng chính đáng mà nhân dân đã phản ánh.”
Món hàng Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc mà đảng cộng sản đang tìm cách thuê tháo bán thốc cần được đặt chung với các món hàng Bauxite Tây Nguyên, Formosa Vũng Áng mà đảng đã cướp của Tổ Quốc để dâng cho Tàu cộng. Không cần phải chờ đến 99 năm nóc nhà Tây Nguyên mới trở thành căn cứ địa bùn đỏ của Tàu. Không cần đến 70 năm Formosa mới trở thành pháo đài sinh thái của Bắc Kinh có khả năng huỷ diệt toàn bộ ven biển Đông.
Đặc khu kinh tế tương tự như một con dao. Chúng ta dư sức chỉ trích nó khi chọn góc nhìn đó là một thứ dùng để giết người. Chúng ta cũng thừa kiến thức để viết lên những giá trị hữu ích của một con dao.
Một chính phủ yêu nước thương dân và bị kiểm soát bởi hệ thống tam quyền phân lập do người dân thực sự bầu ra sẽ thừa khả năng rút tỉa những bài học, kinh nghiệm để thành lập những đặc khu kinh tế góp phần làm cho dân giàu nước mạnh.
Cộng sản tay sai Ba Đình chưa bao giờ và sẽ không bao giờ là một chính phủ đó. Do đó, Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc chỉ là ba con dao mà các thái thú xác Việt hồn Tàu muốn dâng cho Tàu cộng để cứa cổ Việt Nam.
Do đó, mọi cuộc tranh đấu – dù phải đối diện với vô vàn gian nan, thử thách, tù đày – người dân Việt yêu nước vẫn phải dồn vào nỗ lực loại bỏ tập đoàn cầm dao giết người chứ không chỉ tìm cách dẹp bớt một con dao. May mắn loại được con dao này thì bầy đàn cộng sản Ba Đình sẽ tiếp tục dùng những con dao khác để cùng với ngoại bang lóc thịt Mẹ Việt Nam.
Con đường lóc thịt đó đã khởi đi từ Hồ Chí Minh aka Hồ Tập Chương, kéo dài qua đám con hoang với Mật ước Thành Đô, và bây giờ Nguyễn Phú Trọng đang là tên Thái thú, có thể là cuối cùng của nước Việt Nam, đang nỗ lực hoàn tất “sứ mạng” biến Việt Nam thành một tỉnh lẻ của Tàu.
08.06.2018
Vũ Đông Hà
danlambaovn.blogspot.com
_________________________________________________

CSVN Sắp Nhượng Địa Cho Trung Cộng Làm Tô Giới

Đảng CSVN, Nhà Nước CSVN, Quốc Hội Đảng cử dân bầu của CSVN không có tư cách, không có quyền, không có lý do gì để cắt đất, dâng biển, sang nhượng minh thị hay mặc thị cho bất cứ cá nhân hay tập thể người ngoại quốc nào. Trá hình cho ngoại quốc mướn 99 năm thực chất là hành động nhượng địa cho ngoại quốc làm tô giới với 99 năm. Tai hại thay đây lại là dự thảo luật mà CSVN  dùng cái tên dông dài là đề án
Luật Đơn vị Hành chính-Kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, hay gọi tắt là Luật Đặc khu theo kiểu tuyên truyền của CS ‘dụng danh đạt quả’, và cái Quốc Hội đảng cử dân bầu mà đồng bào VN trong nước thường chơi chữ gọi là “quốc hại” đang thảo luận và biểu quyết. Và người dân trong ngoài nước đủ mọi tầng lớp xã hội đang tập trung nỗ lực chống đối bằng nhiều cuộc đấu tranh.
Về hình thức và nội dung dự luật gọi tắt là Luật Đặc khu nếu cái gọi là Quốc Hôi của CSVN có biểu quyết thông qua 100% thì đó cũng là một văn kiện vi hiến, phi pháp, và phi đạo lý. Trên pháp lý nó vô hiệu lực, tức coi như chưa bao giờ có luật này. Những người gọi là ‘đại biểu nhân dân’ thực ra là những đảng viên CS đảng cử dân bầu vào cái Quốc Hội đảng cử dân bầu đang thảo luận trong kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa XIV. Đây là lần đầu tiên thời hạn cho thuê đất dành cho các dự án đầu tư của nước ngoài được đề nghị tăng thêm đến 99 năm, thay vì 70 năm theo luật hiện hành của CSVN.
Về thời hạn 99 năm dành cho ngoại quốc mướn gọi là sử dụng 99 năm. Cũng không khác thời hạn Nhà Mãn Thanh tự Mãn Châu Quốc  đánh chiếm Trung Hoa cai trị cả trăm năm, suy sụp, liệt bại bị Thực dân Tây Phương ép buộc phải nhượng địa cho Thực dân Anh, Pháp, Bồ đào Nha làm tô giới ở Hồng Kông, Thượng Hải, Macao, như Hồng Kông thuộc Anh 99 năm. Nhà Thanh làm vậy là để tự cứu không bị Tây Phương tấn công, còn có thể cai trị Trung hoa để áp bức bóc lột Trung Hoa để như Thủ Tướng CSVN nói cán bộ đảng viên CSVN tham nhũng, ăn cắp của công, ăn hối lộ của dân là đang ‘thu vén cuối đời’.
Đặc khu của CSVN liên quan đến địa chánh trị và tương quan ngoại giao với ngoại quốc khiến ai cũng dễ dàng liên tưởng đến các tô giới, nhượng địa tức phần đất nằm trong một quốc gia có chủ quyền nhưng bị một nước khác quản lý, vào thời chủ nghĩa thực dân còn hoành hành trên toàn thế giới những thế kỷ trước.
Về lịch sử tô giới, nhượng địa (hay Đặc khu) thường được các cường quốc áp đặt và thiết lập lên trên lãnh thổ của những quốc gia bạc nhược, mất hẳn tinh thần độc lập dân tộc, nặng tinh thần lệ thuộc hay thống thuộc.
Về thực tế và hiện tình, từ lâu TC lãnh thầu các công trình ở VNCS, thì TC đưa người, công nhân qua có thể trá hình làm đội quân thứ năm, lập làng xóm riêng, như một quốc gia TQ trong quốc gia VNCS. Ở VN bây giờ không ai biết có bao nhiêu người TQ, bao nhiêu công trình do người TQ được thầu, nắm giữ như chủ nhân ông thực thụ.
Số đất đai, cơ sở, công trường mà TQ mướn đất để làm ở  các tỉnh vùng biên giới Việt-Trung từ lâu coi như vào tay, thuộc quyền kiểm soát của  TC rồi, coi như  TC đã thôn tính rồi. Bây giờ nếu dự luật này Quốc Hội CS thông qua sẽ không những hợp thức hoá sự cắt đất nhượng biển cho quan thầy TC mà còn giúp cho TC xâm nhập một cách hợp pháp vào nội địa VN, biến lãnh thổ VN trên phương điện địa chánh trị VN là một vùng da beo của TC. Đất nước VN bị TC xâm nhập, các đặc khu sẽ là những con ngựa thành Troie, nơi trú quân, xuất quân, can cứ địa của đội quân thứ năm của TC ngay trong đất nước VN.
Về chiến lược chiến thuật ba khu vực được chọn làm đặc khu là Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, diện tích rộng lớn và vị trí rất hiểm yếu về mặt quân sự trên biển và đất liền. Về an ninh quốc phòng khi  CSVN sang nhượng cho TC làm nhượng địa, tô giới chiếm cứ suốt 99 năm, TC sẽ thiết lập cơ sở quân sự và quân báo trá hình sâu bên trong lãnh thổ Việt Nam.
Đại biểu Dương Trung Quốc (Đồng Nai), một nhà chịu khó nghiên cứu sử VN nhắc nhở “luôn luôn phải tư duy về địa – chính trị, nhất là khi 3 đặc khu được coi là “mặt tiền” của đất nước án ngữ trước biển Đông. “Tôi xem truyền hình tuyên truyền ủng hộ cho dự án này bằng những con số rất cụ thể nhưng đấy chỉ là trên giấy. Nếu cộng tất cả lợi ích đó, tôi cho là con số rất nhỏ với túi tiền của thiên hạ. Người ta sẽ tung tiền để mua. Tôi rất muốn các đại biểu của các tỉnh có đặc khu như Quảng Ninh, Khánh Hòa… nói xem bao nhiêu nhà cửa người Trung Quốc mua rồi? Tệ hại ở chỗ, chính người Việt Nam tiếp tay cho họ lách luật” – ông Quốc lo lắng.
Nhìn qua các nước chung quanh, chỉ có CSVN quá dễ trong việc qui định thời hạn cho ngoại quốc mướn đất dự trù 99 năm, tức một thế kỷ. Trung Quốc tối đa 50 năm, Indonesia 30 năm, gia hạn thêm 10 năm. Campuchia 50 năm. Miến điện 50 năm có thể gia hạn thêm 25 năm. Thái lan 50 năm, cho gia hạn thêm nhưng dân chúng đang phản đối.
Mở rộng và sâu tầm nhìn, thì thấy TC đang bao vây Việt Nam trong gọng  kềm. Ngoài biển, hàng không mẫu hạm và tàu lặn TC ra vào căn cứ Hải Nam của TC, hầu như kiểm soát Vịnh Bắc Việt ngoài khơi Hà nội, thủ đô hành chánh của VN. Còn ở phía Nam TC đã lấy đảo Hoàng sa và Trường sa và quân sự hoá như căn cứ tiền tuyến. TC đã khống chế  90%  Biển Đông bằng bản đồ hình lưỡi bò. Tờ Hoàn Cầu Thới báo của TC có lần hăm VN, từ Trường sa TQ chỉ cần hai tiếng đồng hồ là có thể tấn công Saigon thủ đô kinh tế, đầu mối vựa lúa của VN.
Còn trong đất liền, ngoài Bắc dọc theo biên giới VN với Trung Quốc, TC hợp đồng mướn đất dài hạn của các Ủy Ban và Tỉnh của Đảng CSVN giáp giới với TC để làm đồn điền.  Nơi đây TC lập khu vực riêng như thôn xóm Tàu, tất cả từ công nhân, máy móc, cho đến cái bàn cầu vệ sinh cũng  made in China, đem từ bên Tàu qua xài. TC tổ chức  công trường như như một quốc gia trong một quốc gia.
Còn phía Tây, TC bao vây VN bằng các đánh bạt ảnh hưởng của VNCS ra khỏi Miên và Lào mà CS Bắc Việt và VNCS đã xây dựng từ thời Chiến Tranh VN. TC dùng  chiến lược “ phóng tài hoá thu nhân tâm”, dùng viện trợ, hợp đồng kinh tế để tạo thế lực chánh trị trên chánh phủ của hai nước nhỏ này trên bán đảo Đông Dương.
Nếu bây giờ Đảng Nhà Nước CSVN cho TC mướn đất làm nhượng địa, tô giới trong nội địa VN, thì coi như quốc gia dân tộc VN sớm hay muộn cũng sẽ vào tay TC./.
Vi Anh
____________________
07/06/2018(Xem: 1156)
Có phải Đảng CSVN chuẩn bị thiết lập 3 đặc khu kinh tế với quý chế đặc biệt nhằm mở cửa cho di dân Trung Quốc vào VN tràn ngập?
06/06/2018(Xem: 995)
Nhiều dấu chỉ cho thấy Mỹ đang tung một đòn lợi hại. Mỹ loại TC, mời Việt Nam vào cuộc tập trận RIMPAC
______________________________________________________

Thiếu tướng Trần Minh Hùng: ‘Khu vực người Trung Quốc mua đất là tuyệt mật’

“Không nên bán đất ở tuyến đường ven biển Đà Nẵng cho bất cứ cá nhân nào. Nếu vị trí này rơi vào tay kẻ khác thì rất nguy hiểm”, thiếu tướng Trần Minh Hùng trao đổi với Zing.vn.

Lo lắng về việc người Trung Quốc giấu mặt mua đất ven biển ở TP Đà Nẵng gây xôn xao dư luận thời gian qua, Thiếu tướng Trần Minh Hùng – nguyên Phó tư lệnh Quân khu 5 nói:
– Tôi rất bất ngờ và quan ngại vì không hiểu tại sao chính quyền thành phố lại phân lô bán đất khu vực này. Đất nước còn nghèo nhưng không vì thế mà đem diện tích đất ở khu vực nhạy cảm ra bán vì bất cứ lý do gì.
Quan điểm của cá nhân tôi là không nên bán đất ở tuyến đường ven biển Đà Nẵng cho bất cứ cá nhân nào, dù người đó là ai.
Thiếu tướng Trần Minh Hùng - nguyên Phó tư lệnh Quân khu 5. Ảnh: Đoàn Nguyên.
Thiếu tướng Trần Minh Hùng – nguyên Phó tư lệnh Quân khu 5. Ảnh: Đoàn Nguyên.
Các tuyến đường này như thành lũy bảo vệ thành phố
– Ông đánh giá thế nào về tầm quan trọng của tuyến đường ven biển Đà Nẵng đối với an ninh quốc phòng?
– Tôi phải nhấn mạnh rằng, toàn bộ tuyến đường Trường Sa, Hoàng Sa và Võ Nguyên Giáp (từ chân núi Sơn Trà đến phường Điện Nam, xã Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) là tuyệt mật, bất khả xâm phạm.
Lịch sử chiến tranh đã chứng minh, Đà Nẵng có vị trí đặc biệt quan trọng. Trong đó, các tuyến đường này như một thành lũy bảo vệ toàn thành phố. Vì vị trí quan trọng như vậy nên khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ mở đầu các cuộc chiến tranh xâm lược nước ta đều xuất phát đánh chiếm bán đảo Sơn Trà.
– Ông có thể phân tích sâu hơn vai trò của khu vực này đối với công tác phòng thủ, bảo vệ?
– Quân khu 5 là một trong những địa bàn chiến lược của cả nước. Trong đó, Đà Nẵng là một hướng chiến lược quan trọng của toàn chiến trường ven biển Quân khu 5. Còn khu vực Tây Nguyên được ví như “Nóc nhà Đông Dương”.
Trong tác chiến quân sự, cách đánh chiếm bàn đạp ở tuyến mép nước ven biển là cực kỳ quan trọng. Chính vì tầm quan trọng như trên nên khi còn làm Phó tư lệnh Quân khu 5, tôi đã nhiều lần có ý kiến là toàn bộ đường ven biển nhạy cảm chỉ được sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng.
'Khu vuc nguoi Trung Quoc mua dat la tuyet mat' hinh anh 1
Thiếu tướng Trần Minh Hùng, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 5 trả lời phỏng vấn Zing.vn. Ảnh: Nguyên Vũ.
– Ông bình luận gì về thông tin nhiều người Trung Quốc nhờ các cá nhân người Việt đứng tên mua đất ở khu vực sát sân bay quân sự Nước Mặn?
– Đây là vấn đề mà chúng tôi vẫn ngày đêm đau đáu. Bởi lẽ, khi đã hợp thức hóa được các lô đất trên, người Trung Quốc đương nhiên sẽ sang đây làm ăn sinh sống, lấy vợ sinh con, đẻ cháu. Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời, không xa khu vực này sẽ trở thành khu phố của người Trung Quốc.
Năm 2006, tôi đang là Phó tư lệnh Quân khu 5, một hôm, có vị cán bộ vào Đà Nẵng công tác rồi qua một resort ở ven biển nghỉ ngơi. Tôi mặc quân phục tới đó thăm thì lập tức bị nhân viên resort chặn lại, nói “ông là sĩ quan quân đội nên không được vào”.
Tôi hỏi lý do thì họ nói, ở đây là khách sạn dành cho người nước ngoài ở nên không được vào. Tôi là tướng lĩnh quân đội mà còn bị ngăn cản như thế thì làm sao người dân, du khách có thể vào các khách sạn này được? Vấn đề đặt ra là người nước ngoài vào trong đó chỉ để ở hay làm gì khác?
'Khu vuc nguoi Trung Quoc mua dat la tuyet mat' hinh anh 2
Nhiều nhà hàng, khách sạn của người Trung Quốc mọc lên ở Đà Nẵng. Ảnh: Đoàn Nguyên.
Phải hiểu những khu đất chiến lược và bảo vệ chặt chẽ
– Nhưng thiếu tướng có cho rằng mình đang lo ngại quá xa?
– Quan điểm xuyên suốt của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ta là giải quyết tất cả các vấn đề bất ổn bằng biện pháp hòa bình. Không thể lấy tiếng súng để giải quyết mâu thuẫn.
Thực tế, chúng ta đang lấy “trí nhân để thay cường bạo”. Tuy nhiên, ông cha ta đã răn dạy “cảnh giác không bao giờ thừa”. Thế hệ trẻ phải biết rõ vai trò, vị trí của những khu đất chiến lược và nhạy cảm để gìn giữ và bảo vệ một cách chặt chẽ.
– Theo ông, trước quan ngại của các chuyên gia, người dân, chính quyền Đà Nẵng cần làm gì?
– Theo tôi, đối với các khách sạn đã được xây dựng, lãnh đạo TP Đà Nẵng phải làm việc với chủ đầu tư, yêu cầu họ mở cửa đón mọi du khách vào nghỉ dưỡng. Xây khách sạn trên lãnh thổ Việt Nam mà không cho người Việt vào là điều quá vô lý. Điều này nằm trong tầm tay của các cơ quan chức năng và chúng ta yêu cầu họ như thế cũng hoàn toàn đúng luật.
Đối với các lô đất nghi đã rơi vào tay người Trung Quốc, các cơ quan chức năng phải tìm cho ra ai là người đứng tên chủ sở hữu. Từ manh mối này, phải tìm hiểu xem họ mua đất bằng nguồn tiền nào? Có ai đứng sau đưa tiền nhờ mua các lô đất ở gần sân bay Nước Mặn.
Về lâu dài, lãnh đạo thành phố cần vận động các cá nhân đứng tên tự nguyện khai báo mục đích mua đất. Từ đó, cơ quan chức năng có biện pháp xử lý, thu hồi các lô đất theo đúng trình tự pháp luật.
Đó mới là giải pháp căn cơ nhất để chính quyền TP Đà Nẵng tháo gỡ những quan ngại của nhân dân và dư luận về vấn đề nhạy cảm có liên quan đến an sinh xã hội và an ninh quốc phòng.
Thiếu tướng Trần Minh Hùng tham gia cách mạng từ lúc 12 tuổi với vai trò liên lạc xã đội, du kích xã Điện Dương, huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Ông từng giữ nhiều trọng trách quan trọng như: Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 307 – Quân khu 5; Phó tư lệnh Quân đoàn 3; Cục trưởng Cục quân huấn – Bộ Tổng tham mưu. Tháng 3/2006 đến tháng 3/2010, thiếu tướng Trần Minh Hùng là Phó tư lệnh Quân khu 5.
Đà NẵngĐà NẵngĐà Nẵng là một thành phố thuộc trung ương từ năm 1997, là trung tâm kinh tế, tài chính, chính trị, văn hoá, du lịch, xã hội, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung – Tây Nguyên và cả nước.
Bạn có biết: Nguồn gốc từ “Đà Nẵng” là biến dạng của tiếng Chăm cổ daknan, nghĩa là vùng nước rộng lớn hay “sông lớn”, “cửa sông cái”.
Diện tích: 1.285km2Dân số: 1,347 triệu (2016)Phân chia hành chính: 6 quận, 2 huyệnVùng: Nam Trung BộMã điện thoại: 236Biển số xe: 43
Đoàn Nguyên
______________________________________________________

Vân Đồn – Bắc Vân Phong – Phú Quốc; Ba Yếu Điểm đem dâng cho giặc

DI CHÚC CỦA VUA TRẦN NHÂN TÔNG
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa nước Tàu. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta, họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn: một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu…”
Đảo Vân Đồn
Vân đồn là một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ninh. Cảnh sắc thiên nhiên của Vân Ðồn rất hùng vĩ, như một chiến luỹ chắn biển Ðông. Biển Vân Ðồn tiềm ẩn nhiều hải sản quý; nhiều bãi tắm đẹp trên các đảo Quan Lạn, Ngọc Vừng và nhiều hang động kỳ ảo. Đến với Vân Đồn, du khách không chỉ được thả hồn với vẻ đẹp của tạo hóa, của thiên nhiên mà còn được đi vãn cảnh chùa Cái Bầu, tham quan đời sống người ngư dân, được thưởng thức các loại hải sản tươi sống của dân bản địa. https://www.vntrip.vn › Cẩm nang du lịch › Quảng Ninh
Vân Phong
Đặc Khu kinh tế Bắc Vân Phong là một khu kinh tế của Việt Nam ở Vịnh Vân Phonghuyện Vạn NinhtỉnhKhánh Hòa. Khu này được thành lập vào năm 2006 với mục tiêu trở thành một hạt nhân tăng trưởng kinh tế, trung tâm đô thị – công nghiệp – dịch vụ – du lịch của khu vực Nam Trung Bộvùng kinh tế trọng điểm Trung bộ và là một đầu mối giao lưu quốc tế, trung tâm du lịch quan trọng của Việt Nam. Nằm trong ba đặc khu kinh tế trọng điểm của cả nước (Đặc khu Phú Quốc, Đặc khu Bắc Vân Phong và Đặc khu Vân Đồn)
Khu kinh tế Vân Phong rộng 1500 km² trong đó phần trên biển rộng tới 800 km². Phần trên đất liền bao trùm các  Vạn Thọ,Đại Lãnh , Vạn Thạnh ,Vạn Phước, Vạn Khánh ,Vạn Bình, Vạn Thắng , Vạn Phú, Vạn Lương, Vạn Hưng, Xuân Sơn, thị trấn Vạn Giã thuộc huyện Vạn NinhĐặc khu kinh tế bắc Vân Phong có lợi thế là cảng nước sâu Đầm Môn có thể tiếp nhận tàu 200.000 DWT vào ra dễ dàng . Giao thông thuận lợi , nằm trên giao lộ Bắc Nam và Tây Nguyên , cảnh quan du lịch phong phú chưa được khai thác . Chưa có những xây dựng cụ thể , còn sơ khai do đó khi có quy hoạch tổng thể , các nhà đầu tư dễ dàng xây dựng mặt bằng cơ sở (xây dựng mới lúc nào cũng thuận lợi và ít tốn kém hơn là cải tạo cái cũ đã có)
Phú Quốc
Phú Quốc, còn được mệnh danh là Đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất của Việt Nam, cũng là đảo lớn nhất trong quần thể 22 đảo tại đây, nằm trong vịnh Thái Lan. Đảo Phú Quốc cùng với các đảo khác tạo thành huyện đảo Phú Quốc trực thuộc tỉnh Kiên Giang. Toàn bộ huyện đảo có tổng diện tích 589,23 km² (theo thống kê số liệu đất năm 2005), xấp xỉ diện tích đảo quốc Singapore thập niên 1960 khi chưa san lấp lấn biển. Thị trấn Dương Đông, tọa lạc ở phía tây bắc, là thủ phủ của huyện đảo. Phú Quốc nằm cách thành phố Rạch Giá 120 km và cách thị xã Hà Tiên 45 km. Năm 2006, Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang bao gồm cả huyện này được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Đến thời điểm tháng 7 năm 2011, có 74 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư tại Phú Quốc, với tổng vốn đầu tư là 48.087 tỷ đồng.
*****************
Nhượng quyền khai thác đất đai 99 năm ngang bằng 3 thế hệ người dân Việt thì kể như chấp nhận 3 thế hệ chệt lưu trú ở Việt Nam.
Nói theo kiểu Thủ tướng Mohamad Malaysia: Đó là “Định cư” chớ không phải lưu trú làm ăn.
Chệt hiện tại “định cư” khắp nơi trên đất Việt: Tiêu biểu như Đông Đô Đại phố Bình Dương, ở đó chú chệt có cả bệnh viện tối tân và cả trường Đại học chệt. Nói vắn tắt, đó là thị trấn chệt.
Đà Nẵng cũng có một khu tương tự.
Ai cũng biết: Đó là họa “xâm thực!”
Bây giờ, trơ tráo hơn, cấp bách hơn là sự kiện thoái nhượng Vân Đồn – Bắc Vân Phong – Phú Quốc.
– Vân Đồn: “Vân Ðồn rất hùng vĩ, như một chiến luỹ chắn biển Ðông.” 
Bây giờ sắp giao cho chệt làm trạm nghỉ chân đầu tiên trên đoạn đầu Biển Đông
– “Con đường Tơ lụa trên biển” (OBOR – One Belt – One Road) của chệt khựa.
– Bắc Vân Phong: “Đặc khu kinh tế bắc Vân Phong có lợi thế là cảng nước sâu Đầm Môn có thể tiếp nhận tàu 200.000 DWT vào ra dễ dàng.”
Đây là nơi tàu bè di chuyển trên “Đường Tơ Lụa Biển” có thể thuận tiện ghé lại bảo trì.
Phú Quốc: “Phú Quốc, còn được mệnh danh là Đảo Ngọc” ở cuối Biển Đông sẽ là nơi tàu bè ghé lại để thủy thủ đoàn nghỉ ngơi, giải trí.
Tóm tắt lại là: An Nam xã nghĩa hán ngụy ta tích cực chuẩn bị “để hoàn thành nhiệm vụ tay sai”:  Cung cấp tiện nghi hoàn thiện đoạn đầu trọng yếu của quỷ OBOR chệt nhằm mở đường chinh phục thế gian.
Như vậy là hán chệt với sự a tòng của nội gian việt cọng vừa “tàm thực” trên đất liền vừa khống chế Biển Đông, hoàn thành công cuộc “đô hộ” nước An Nam việt cọng trên thực tế, khỏi cần bắn phát súng nào!
Hỡi con dân nước Việt!
Những ai còn thao thức hãy vùng dậy góp một bàn tay, đánh thức, thúc dục tuổi trẻ can trường dấn thân hành động, bằng mọi cách đánh tan chế độ hán ngụy bán nước việt cọng kẻo không còn kịp nữa!
Nguyễn Nhơn
Mùa Hè Nổi Lửa Đấu Tranh
2/6/2018
____________________________________________________

“Đặc khu” hay “nhượng địa” – Âm mưu đánh tráo khái niệm

Đứng trước tình hình đất nước chao đảo ngã nghiêng như ngàn cân treo sợi tóc, có nguy cơ mất nước về tay giặc Tàu mà đảng csVN đã lộ rõ âm mưu bán nước một cách trắng trợn không hề giấu giếm hay che đậy như trước đây. Bộ Chính trị csVN đã âm thầm cúi đầu tuân mệnh thiên triều trong việc giao ba tiền đồn hiểm yếu có thể coi là “tử huyệt” của Việt Nam là Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh-Bắc Vân Phong tỉnh Khánh Hòa và Phú Quốc tỉnh Kiên Giang.
Để hợp thức hóa mệnh lệnh trên, csVN đã áp đặt cho cái tổ chức tay sai gọi là “Quốc Hội” để biểu quyết thông qua ý đồ của chúng. Và cuối cùng chúng mỵ ngôn là “nhân dân đã quyết” qua hành động cử chỉ bấm nút, đưa tay của bầy lừa!
Nói về cụm từ “cho thuê đất thời hạn 99 năm” rồi “đặc khu” này nọ chỉ là những “xảo ngôn, điếm ngữ” đánh lừa nhân dân, đánh tráo khái niệm để qua mắt dân tộc nhưng thực chất nó là “nhượng địa”, là cắt đất cho ngoại bang, đó là những bước đi đầu của bàn cờ được sắp sẵn là hành vi bán nước nếu là âm mưu hoặc là hoàn cảnh xé lòng nuốt lệ nếu đó là sự cúi đầu cam chịu vì hèn và không còn sự lựa chọn nào khác. Không ai thấm cái nỗi đau sau khi cam lòng ký văn bảng đầu hàng, điều ước nhượng địa và nổi ám ảnh mất nước, dân làm nô lệ sau khi ký các văn kiện này không ai bằng chính người Trung Quốc.
Để chứng minh điều này tôi xin phép lược sơ vài nét hoàn cảnh lịch sử Trung Hoa (TH) dưới thời nhà Thanh vào các thập niên 30s-40s của thế kỷ 19. Đây là giai đoạn mà triều chính nhà Thanh vô cùng đen tối và bắt đầu lao vào màn đêm vô tận. Trước sự xâu xé và mọi áp bức của “Bát cường” đặt lên đầu vua quan nhà Thanh và nhân dân TH bắt nguồn từ sự hèn nhác, nhu nhược của triều đình, triều chính rối ren… tôi thần bưng bít, làm tay sai cho ngoại bang nên đã đẩy chính trường TH vào ngõ cụt dưới đường hầm tối tăm không lối thoát.
Với diện tích mênh mông TH đại lục có gần 500 triệu dân lúc bấy giờ (tiền bán thế kỷ 19) là miếng mồi ngon cho bát cường xâu xé… trong xu thế chiếm thuộc địa và sở hữu nô lệ trên thế giới thời bấy giờ, và để có những món lợi kết xù họ không ngần ngại tuồn vào đất nước này hàng vạn tấn “á phiện” khiến cho từ quan đại thần xuống tận người nông dân cày cuốc cũng ngập chìm trong màn khói của “nàng tiên nâu”, là tiền đề cho người TH một thời rơi vào vòng nô lệ đầy ô nhục. Cuối cùng sự thể đã đến tai vua Đạo Quang và ông lập tức phái khâm sai đại thần Lâm Tắc Từ tăng thêm hàm thượng thư tiết chế Quảng Đông Thủy Sư về Quảng Đông tiêu trừ nha phiến, trong đợt càng quét này Lâm tịch thu hơn 20.000 thùng thuốc phiện (khoảng 2.300.000 cân trị giá chừng 800 vạn lạng bạc trắng) và lệnh thiêu hủy hoàn toàn xong xả tro tàn trôi ra biển. Thực hiện từ ngày 3/6/1839 trong vòng 23 ngày là hoàn tất khiến cho Vương Quốc Liên Hiệp Anh nổi cơn thịnh nộ và sau đó là cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất (1839-1842) diễn ra và kết quả bi thảm thuộc về nhà Thanh, buộc nhà Thanh phải đặt bút ký “điều ước Nam Kinh” ngày 29/8/1842 một cách nhục nhã, chẳng đặng đừng mà sau này người dân TH gọi là “điều ước bất bình đẳng” trong đó có điều khoản tồi tệ là giao bán đảo Hương Cảng làm nhượng địa cho Vương Quốc Anh.
Nói thêm về sự dẫn dắt khiến nhà Thanh phải cúi đầu ký tiếp điều ước Bắc Kinh sau khi cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ 2 (1856-1860) nổ ra vì sự lấn lướt và ngông cuồng của liên quân Anh-Pháp và tất nhiên là thất bại thuộc về quốc gia bị trị. Sau đó là điều ước Bắc Kinh cũng được áp đặt buộc nhà Thanh phải nuốt lệ vào trong mà ký ngày 18/10/1860 và kéo dài chuỗi tháng năm đen tối đến ngày 1/7/1898 hiệp đinh mở rộng ranh giới Hương Cảng bao gồm luôn cả Tân Giới và Cửu Long để thành “Hồng Kông” như ngày nay và thành “nhượng địa” cho Vương Quốc Anh thời gian 99 năm. Do đó cái nỗi nhục, niềm đau, cay đắng khi cắt đất nhượng địa cho ngoại bang không một ai thấm đòn bằng người Trung Quốc. Khổ thay với bản chất xấu xa chúng lại đem những nỗi nhục đó lập lại và phủ lên đầu các nước lân bang nhỏ hơn, kém phát triển hơn và đang phụ thuộc chúng đủ điều từ kinh tế, chính trị đến quân sự… các nước như Malaysia, Cambodia đã lọt vào thế trận và đang nếm mùi “thuộc địa”. Nay VN tiếp bước lịch trình Hán hóa của thiên triều mà “chi bộ đảng cộng sản Ba Đình” cúi đầu tuân mệnh Trung Nam Hải một cách triệt để, xuất sắc và đúng quy trình…
Tại sao phải là Vân Đồn-Vân Phong và Phú Quốc?
Điều mà những nhà quân sự lẫn chính trị VN và thế giới nhất là Trung Quốc đều nhìn nhận rằng nếu muốn nhòm ngó bán đảo Đông Dương và cả vùng Đông Nam Á thì không thể không chú tâm đến các điểm sau:
– Việt Nam là bàn đạp là cửa ngõ đầu tiên để thâm nhập vào vùng này thực hiện ý đồ xâm lăng. Muốn thế thì phải bằng mọi giá khống chế các tử huyệt của VN.
Các tử huyệt của VN gồm các cứ điểm sau:
– Tây nguyên là mái nhà Đông Dương. Từ đây phóng tầm nhìn về tây kiểm soát được Miên-Lào với thế mạnh là bức trường thành Trường sơn hùng vỹ là hậu cứ an toàn nếu có chiến tranh-Trong cuộc chiến csBV cưỡng đoạt MNVN là minh chứng. Quét ống kính về Đông thì Biển Đông, Hoàng-Trường Sa nằm trong tầm mắt. chính điều này mà trước đây những nhà hoạch định chiến lược quân sự cả Pháp lẫn Mỹ cũng đều nhận thấy và khẳng định chính Tây Nguyên là mái nhà Đông dương là yết hầu là tử huyệt của VN, nếu làm chủ được nơi này xem như đã khống chế được Đông Dương cùng một vùng bao la biển trời rộng lớn.
Chính cái “đại tử huyệt” này mà tập đoàn Trung Nam Hải đã sớm toan tính và triệu hồi đứa con hoang Nông Đức Mạnh (NĐM) bí thư chi bộ “An Nam cộng sản đảng” về chầu trung ương cộng sản thiên triều vào tháng 12/2001. Trong chuyến này NĐM tiếp chỉ với hình thức là ra “tuyên bố chung”: “hai bên nhất trí sẽ tiếp tục thúc đẩy các doanh nghiệp họp tác lâu dài trên dự án Bauxite Đắc Nông”. Chưa dừng lại, Bắc Kinh tiếp tục triệu hồi NĐM sang chầu lần nữa từ ngày 30/5 đến ngày 2/6/2008 và tái khẳng định cũng trong tuyên bố chung là hai bên tăng cường họp tác trong các dự án như Bauxite Tây Nguyên…” lần này NĐM cúi rạp mình trước hàng lính của thiên triều một cách đầy ô nhục. Sau đó tên “đại điếm thối 3 Ếch” đã cương quyết bỏ ngoài tai những lời cản ngăn, thỉnh nguyện từ các nhà khoa học, các nhà trí thức, các tướng lĩnh quân đội kinh nghiệm chiến trường rằng không nên tiến hành dự án Bauxite Tây Nguyên và rằng đây là nơi trọng yếu về chiến lược quân sự có tính an ninh quốc phòng quyết định sự sống còn của dân tộc, an nguy cho đất nước chứ không hề có hiệu quả kinh tế. Chẳng những thế mà nó (Bauxite) còn đe dọa môi trường và nguy hại đến sức khỏe, tính mạng của người dân nơi đây và các tỉnh miền xuôi… 3 Ếch ném về phía các nhà khoa học, quân sự một câu đầy phản động rằng “Khai thác Bauxite Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng đã được nêu trong nghị quyết đại hội X của đảng, bộ chính trị đã nghe và kết luận về phát triển Bauxite Tây Nguyên…” mặc cho sự tồn vong của đất nước và sống còn của người dân…mà chấp hành chiếu chỉ của thiên triều với âm mưu đầy thâm độc và đến nay là hậu quả về kinh tế và môi trường đã rõ. Riêng về chính trị, quân sự thì từ đây đảng csVN đã mở đầu cho hành vi bán nước là mở đường cho hàng vạn lính Trung Quốc dưới lớp áo công nhân trá hình. Trong số này còn có đôi ngũ gọi là kỷ sư, nhà quản lý, chuyên gia… nhưng thực tế là các cấp sĩ quan chỉ huy quân sự lẫn an ninh, gián điệp… thành lập nên một đôi quân thứ 5 với cấp sư đoàn nằm chờ giờ “G” thật nguy hiểm.
“Trường Sơn nhất đới…” là bức trường thành vĩ đại của Tổ Quốc đã nằm trong tay đại Hán.
Nhìn về Đông với hơn 3.300 km bờ biển ngoài thế địa chính trị, địa chiến lược ra còn là mũi nhọn kinh tế nữa, đồng thời là một chiến lũy vững chắc, là một con “trường xà” uốn lượn bao bọc cả Đông Dương. Tôi được biết trong “Tôn Ngô binh pháp” có trận đồ “nhứt tự trường xà” rất lợi hại. Muốn phá được trận này không phải dễ, cần phải có một tướng tài ba dũng lược cùng đội ngũ binh hùng tướng mạnh dưới trướng mới có thể phá được. Bởi đánh ở đàng đầu thì đuôi quay về cứu ứng, ngược lại đánh ở đàng đuôi thì đầu lại kéo về. Đánh ở giữa lưng (bụng) thì đầu đuôi cùng lúc họp lực. Tôn Ngô binh pháp là sản phẩm của tổ tiên tộc Hán nên hóa giải cái trận đồ “nhứt tự trường xà VN” không mấy là gian nan đối với Tàu cộng Bắc phương.
Để phá được con “trường xà VN” thì Tàu cộng phải khóa cả đầu, đuôi và bụng của của con rắn này.
Đầu chính là Vân Đồn, bụng (lưng) chính là Bắc Vân Phong thêm Vũng Áng (đã xong hàng) và đuôi là Phú Quốc. Nhìn được 3 tử huyệt để phá trân này, Trung Nam Hải đã ngầm ra chiếu chỉ bằng mọi cách chiếm lĩnh 3 tử huyệt trên với hình thức “đăc khu kinh tế 99 năm” nhưng thực chất cả nước VN sẽ nằm vĩnh viễn trên nền cờ 6 sao Đại Hán, giống như khi chưa cưỡng đoạt được MNVN thì mặt trận GPMNVN với lá cờ nửa xanh nửa đỏ giữa sao vàng là hình thức mỵ lừa thế giới. Nhưng sau 30.4.1975 thì giải thể tổ chức ngụy trang này cùng lá cờ điếm xảo.
Tại 3 tử huyệt trên khi đã thành hình là “đặc khu Tàu 99” thì người dân VN bất khả xâm phạm và cũng giống như tiền đồn Bauxite Tây Nguyên, đội quân thứ 5 của Hán tặc đã ngập tràn chờ hiệu lệnh giờ “G”. Lúc này tại Vân Đồn còn được sự hổ trở từ đảo Hải Nam TQ chỉ cách nhau trong tầm tay với! Bắc Vân Phong và Vũng Áng thì các tên lửa, tàu chiến, máy bay ném bom hạng nặng… xuất phát từ các đảo lớn như Phú Lâm thuộc Hoàng Sa, Subi thuộc Trường Sa và các đảo TQ bồi đắp trái phép trên hai quần đảo Hòang Sa, Trường Sa của VN sẽ hiện diện trong phút chốc? Còn Phú Quốc thì được sự tiếp ứng hỗ trợ từ cảng Sihanoukvile-Cambodia cũng đã thuộc về Tàu và thêm một cái gọi là “đặc khu Tàu 99” ở Malaysia nữa cũng sẵn sàng xuất phát hổ trợ cho Phú Quốc một khi nếu cần. Thế là “nhứt tự trường xà VN” chỉ còn là một con rắn đã bị lột da. Mảnh đất thiêng liêng hình chữ S của Tồ Tiên dòng giống Lạc Hồng đổ máu xương tạo dựng và lưu lại sẽ tan tác như cánh bướm sau cơn giông bão. Nhân dân VN sẽ tha phương cầu thực và biến mất trên nền trời Tổ Quốc như “Mãn, Hồi, Mông, Tạng” ngày nay.
Việt Nam đúng là một dãi đất có đủ các ưu thế địa chính trị, địa quân sự và địa kinh tế của tổ tiên dày công tạo dựng và lưu truyền mà trong một sớm một chiều trở thành một ngôi sao mới, nép mình nhục nhã trên nền cờ Đại Hán một khi cộng sản Ba Đình quyết tâm buộc gần 500 con lừa nhấn nút, đưa tay thông qua “chiếu chỉ Bắc Kinh” giao nộp giang sơn cho giặc. Tội này tập đoàn cộng sản Ba Đình cùng bầy lừa bại nao gần 500 con ngàn thu không rửa sạch.
04.06.2018
David Thiên Ngọc
danlambaovn.blogspot.com
__________________________________________________

Giao “đặc khu kinh tế” cho tàu 99 năm, chỉ là âm mưu mua bán nước giữa 2 tên cướp lớn và cướp bé Trung Cộng – Việt Cộng !

Ảnh: Facebook Nguyễn Thuý Hạnh
Trong những ngày này khắp cả nước đang rộ lên một tin làm chấn động cả thế giới, là nhà cầm quyền CSVN đã thông qua việc giao ba “đặc khu kinh tế” là Vân Đồn ở cực bắc của VN, Vân Phong ở miền Trung, và Phú Quốc ở cực Nam của VN cho Tàu cộng trong 99 năm, nói gọn gàng là một thế kỷ, tương đương với 3 thế hệ người VN ! Quốc hội chuẩn bị bỏ phiếu, nhưng dư luận cho biết có thể số phiếu thuận tới 95%, vì đó là “chủ trương lớn” của nhà cầm quyền CSVN, đã được Tập Cận Bình chỉ thị cho, và thủ tướng CS Nguyễn Xuân Phúc đã ký. Khi được chất vấn tại sao giao đất cho Tàu 99 năm, thì Phúc trả lời: “Nếu ai ở địa vị này (thủ tướng) cũng phải giao, không có cách gì khác!”, được hiểu là Phúc bị áp lực của Tàu: “dao kề cổ, súng kề màng tang” nên không giao không được!
Để mọi người có một ý niệm rõ về việc giao đất 99 năm này, chúng ta nên lưu tâm đến mấy trọng điểm:
I. Đặc khu kinh tế (ĐKKT) là gì?
Nhà cầm quyền CSVN lấy cớ là để “phát triển đất nước”, nên giao những “đặc khu” này cho “nước ngoài” để họ phát triển nhanh chóng các khu này! Có thật như vậy không? Thật hay không thì chúng ta hãy suy nghĩ:
1. Khi giao ĐKKT thì nhà cầm quyền bên giao phải giảm hay miễn thuế dài hạn, để kích thích bên nhận đầu tư kinh doanh phát triển khu đất đó. Có khi là không được thu thuế trong thời gian dài hay suốt thời gian giao, tùy theo sự thương lượng, và tùy theo “thế mạnh” của bên nhận giao, mà bên nhận đây là Tàu cộng, là cha của VC! Nếu vậy thì lợi ở chỗ nào, ngoại trừ việc kẻ giao tức nhà cầm quyền VC, sẽ cầm được ngay một số tiền, mà ai cũng biết số tiền đó chỉ có kẻ cầm quyền nắm hết chứ dân nước không có lợi gì!
2. Nếu giao với chủ đích để phát triển đất nước, thì tại sao không giao cho các nước khác có tiềm năng hơn như Mỹ, Nhật, Canada, Úc, Pháp, Đức…, mà lại chỉ giao cho Tàu? Phải chăng thời điểm mật ước Thành Đô CSVN phải bàn giao nước cho Tàu vào 2020 đã gần kề, nay Tàu muốn lấy trước một số khu vực trọng yếu trên, nên buộc VC giao sớm, và cho VC một số tiền để chúng thi hành lệnh của Tàu cộng, vì VC đang rất cần tiền!
3. Tại sao lại phải giao đất cho tới 99 năm? Trong khi nếu làm kinh tế, không ai cần tới hàng thế kỷ như vậy! Hiện tại trên thế giới không một nước nào giao đất cho ngoại bang với thời gian đó, 50 năm cũng không có, trừ VC! Chỉ cần một vài chục năm là nhà đầu tư có thể phát triển hay không, nếu được thì thuê tiếp, không được thì giao lại. Hãy nhìn gương của Hồng Kông mà Tàu thời phong kiến đã cho Anh thuê 99 năm, nay sau 99 năm thì Anh giao lại cho Tàu với điều kiện phải kéo dài thêm 50 năm giữ nguyên trạng, tức là HK vẫn tự trị, theo một đường lối chính trị, kinh tế riêng. Hiện nay HK muốn tách hẳn khỏi Tàu, làm một nước riêng mà Tàu không làm gì được! Phải hiểu là HK may mắn được Anh thuê và phát triển mảnh đất này theo thể chế tự do dân chủ, theo kiểu Anh chứ không theo kiểu Tàu, nên bây giờ nó không còn giống Tàu nữa, và rất xa lạ với “chính quốc”, rất may là nó tốt hơn nhiều so với Tàu CS!
4. Thử hỏi sau 99 năm giao cho Tàu, những vùng đất này sẽ ra sao? Trước nhất, thằng Tàu chệt không hề có ý định “phát triển” những khu này, mà ngay lập tức, như chúng đã làm, chúng biến các vùng này thành đất của Tàu, ngay lập tức chúng di dân Tàu qua định cư, sinh sôi nẩy nở cái giòng giống Tàu! Còn nữa, Tàu sẽ coi đây như một vùng tự trị, đưa quân đội qua trấn giữ, không cho người VN được bén mảng vào khu của chúng, giống như Formosa ở Vũng Áng, Bauxite ở Tây Nguyên! Trong đó chúng toàn quyền cất giấu những gì VN không thể biết, nhất là những đặc khu này đều nằm trên biển hoặc sát biển, thuận lợi cho việc đột nhập từ biển vào. Điều chắc chắn là chúng sẽ ém quân đội và giấu vũ khí ở đó, nếu động sự thì chúng tung người và vũ khí ra! Vì nằm giữa đất VN, chúng có thể dễ bề đem người của chúng ra phá hoại, đầu độc những vùng lân cận, đưa những bọn tội phạm, côn đồ mà chúng đã yểm sẵn ra đánh phá các khu khác rồi rút vào đặc khu này, mà chính quyền VN không thể làm gì được! Tóm lại, đây là những đốm đen trên lớp da vàng VN, là những ngòi nổ, là nơi tiềm ẩn bất cứ thứ nguy hiểm độc hại nào như lò nguyên tử, nhưng người Việt thì bất khả xâm phạm vào những đặc khu đó! VN nếu phát hiện cũng đành chịu thua, rồi sau 99 năm thì nơi đó là những Crimea như của Nga từng chiếm của Ukraina, không bao giờ trở lại của VN nữa! Xin đừng nghĩ rằng đó là “suy nghĩ quá đáng”, hãy nhìn biển Đông và các mỏ dầu nằm trong thềm lục địa VN, được quốc tế công nhận, thế mà VN khai thác thì Tàu đuổi chạy có cờ để cho chúng cướp, trước mắt cả quốc tế! Chúng ta đã mất biển đảo, mất đất nước hết rồi!
5. Theo những nhà quan sát, thì cả 3 vùng đặc khu đó đều là những vị trí chiến lược trọng yếu mà Tàu đã tính toán kỹ, rồi mới ra lệnh cho tà quyền CSVN phaỉ giao cho chúng, chứ không phải là những nơi khác! Nhà cầm quyền CSVN hiện đã là tay sai, là tên nô lệ thuần thục của Tàu rồi, nhất nhất thi hành mọi lệnh của Tàu mà thôi !
II. Nhà cầm quyền CSVN và cái quốc hội của nó đã cướp chủ quyền đất nước của người dân VN để bán nước cho Tàu! Trước hết phải xác định: Ngay cả những chính quyền hợp pháp thì cũng không có một chính phủ nào trên thế giới được quyền bán nước hay giao từng vùng lãnh thổ cho ngoại bang, trong khi người dân không đồng tình. Bọn cầm quyền CSVN là bọn tà quyền, đã cướp nước từ tay chính quyền dân cử Trần Trọng Kim năm 1945. Cái “cuốc hộ” bù nhìn này cũng do chúng dựng nên chứ không do tranh cử và bầu cử tự do. Cả bè lũ này đã được nuôi dưỡng bằng đồng lương do thuế của người dân, nay sau khi ăn tàn phá hoại, chúng lại còn bán nước của người dân cho thằng cướp đàn anh là Tàu cộng, đẩy đưa toàn dân vào vòng nô lệ Tàu, được sao hỡi toàn dân? Dùng bạo lực, dùng trấn áp để hù dọa chúng ta, VC coi dân như một bày gà vịt mà chúng đem bán cho tên quỷ đỏ Tàu cộng làm thịt cả dân tộc ta là sao? Chúng ta đành cúi đầu chấp nhận chăng? Biên giới phía Bắc VC đã mở cửa cho Tàu ra vào như chỗ không người, dân Tàu đã tràn ngập khắp nước. Tại Quảng Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, nhiều người dân đã mở cửa hàng chỉ tiếp khách Tàu, xua đuổi khách Việt và cả các nhà báo! Dân VN bây giờ rất nhiều người đã bị CS nhồi nhét chủ nghĩa tam vô, khiến họ không còn ý thức về quốc gia dân tộc, lại thêm thấm nhuần tính ích kỷ, tham lam, vô trách nhiệm, chỉ còn biết tới lợi lộc , biết tiền bạc và sẵn sàng làm nô lệ cho Tàu, không còn biết đến tổ quốc, dân tộc là gì! Thật quá xót xa và nhục nhã! Các nhà trí thức có lòng với tổ quốc đã lên tiếng phản đối về việc giao 3 đặc khu cho Tàu 99 năm, nhưng nếu chỉ dừng lại ở những bài viết mà thôi thì không thể đủ để ngăn chặn việc bán nước này!
Hỡi những con dân VN, chúng ta phải làm gì cho cho tổ quốc, cứu nguy cho dân tộc, nhất là tự cứu mình đi chứ?! Chúng ta đành làm những con ếch bị CS luộc cho chín và chết trong nồi sao?
Hãy xuống đường ngay, với những khẩu hiệu:
– CHỐNG CSVN BÁN NƯỚC CHO TÀU !
– PHẢN ĐỐI NHÀ CẦM QUYỀN CSVN GIAO CÁC ĐẶC KHU KINH TẾ CHO TÀU !
– NƯỚC VN CỦA NGƯỜI VN, KHÔNG CÓ CHỖ CHO GIẶC TÀU !
– TÀU CỘNG HÃY CÚT KHỎI VN !
– NHÀ CẦM QUYỀN CS HÈN VỚI GIẶC HÃY TRẢ LẠI QUYỀN LÀM CHỦ ĐẤT NƯỚC CHO DÂN !
– TÀ QUYỀN VÀ QUỐC HỘI CSVN KHÔNG PHẢI LÀ ĐẠI DIỆN CỦA DÂN, KHÔNG ĐƯỢC KÝ GIAO ĐẤT 99 NĂM CHO TÀU !
– TRỪNG TRỊ ĐÍCH ĐÁNG NHỮNG TÊN HÁN NÔ, NGHỊ GẬT KÝ GIAO ĐẤT CHO TÀU !
– NHÀ CẦM QUYỀN CSVN PHẢI TỔ CHỨC TRƯNG CẦU DÂN Ý ĐỂ DÂN QUYẾT ĐỊNH VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC !
Ít nhất thì những biểu ngữ với nội dung như trên phải được in ra thật nhiều, dán ở khắp nơi, hay in thành những truyền đơn để phổ biến trong dân chúng, hầu thức tỉnh họ, và kêu gọi lòng yêu nước của họ. Tại sao khi dàn khoan HD981 của Tàu cộng vào lãnh hải VN năm 2014, dân ở khắp 3 miền đã đồng lòng xuống đường chống Tàu, và đập phá các công ty nhà máy của Tàu, mà bây giờ tình hình đã nguy cấp gấp bội, thì cả nước lại như ngủ mê?! Người yêu nước không còn sao? Các đoàn thể tranh đấu đâu hết rồì? Nếu chúng ta không lên tiếng lúc này, để cho VC bàn giao xong các đặc khu cho Tàu, tiến đến là bàn giao cả nước cho giặc, thì chúng ta sẽ không còn cơ hội nữa đâu, và quốc tế sẽ coi như đó là ý của toàn dân VN, làm sao họ cứu giúp chúng ta nữa? Giờ phút nguy nan này, toàn dân hãy vùng lên kẻo chết và mất nước! Tất cả mọi thành phần dân chúng, nhất là giới lãnh đạo các tôn giáo, giới trí thức, và cả những người CS còn có tâm, còn biết lo cho sự sống của chính mình và con cháu, hãy cùng đứng lên làm cuộc cách mạng giải phóng đất nước khỏi ách CS và thoát ngoại xâm! CHÚNG TA HÀNH ĐỘNG NGAY HAY LÀ CHẾT !
Hồn Nước
danlambaovn.blogspot.com
————
Ý kiến độc giả :
Các nhà tranh đấu Phật Giáo đâu cả rồi ? Sao không thấy ai tự thiêu và biểu tình cả vậy ?? Cả một lủ Phật Tử Ấn Quang đã vì VC mà đấu tranh đánh sập chế độ VNCH, rước VC vào cai trị, nay nhiệm vụ đã hoàn thành nên tất cả đều chui vô hang ngủ. Tên Thích Trí Quang từ ngày cha ông nó từ miền Bắc vào tiến chiếm miền Nam thì rút cổ vô chùa bình chưn như vại, câm luôn miệng hến. Cái thằng trọc khốn nạn đó bây giờ bị cấm khẩu mất rồi, chỉ ngồi chờ chết để về chầu con quỷ Hồ Chó MInh dưới âm phủ !!
Nước Việt chỉ có thể được cứu nếu rước chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo vào, chỉ có Hồi Giáo mới có đủ can đảm và cuồng tín đánh lại Cọng Sản mà thôi. Dân Công Giáo dưới sự dẫn dắt của chủ nghĩa “yêu thưong kẻ thù” một cách ngu ngốc nên cam chịu đưa cổ cho chúng cắt chứ không dám cầm súng bắn lại bọn quỷ ma này !! Điển hình là ông linh mục Nguyễn văn Lý, đã từng tuyên bố là “bọn Cọng Sản Tàu cũng là anh em cùng một Cha (Thiên Chúa) với người Công Giáo Việt Nam“, và khuyên dân chúng đừng bạo động mà phải ngồi thụp xuống ôm đầu để cho bọn cầm quyền đánh đập ! Ông này học chưa thuộc Kinh Thánh mà dám tuyên truyền một cách phản Thiên Chúa đến thế là cùng !!.
Kim Hoa Bà Bà

No comments:

Post a Comment